Số 522, 711-716, 722: Các tiên tri và sự mong đợi Đấng Messia

Số 523, 717-720: Sứ vụ của Thánh Gioan Tẩy Giả

Số 710: Cuộc lưu đày của dân Israel báo trước về Cuộc Khổ Nạn

Số 2532, 2636: Sự quan tâm của Thánh Phaolô

Bài Ðọc I: Br 5,1-9

Bài Ðọc II: Pl 1,4-6.8-11

Phúc Âm: Lc 3, 1-6

Số 522, 711-716, 722: Các tiên tri và sự mong đợi Đấng Messia

Số 522. Việc Con Thiên Chúa ngự đến trong thế gian là một biến cố hết sức trọng đại, đến độ Thiên Chúa đã muốn chuẩn bị cho biến cố đó qua nhiều thế kỷ. Các nghi thức và các hy lễ, các hình ảnh và các biểu tượng của “Giao Ước Cũ”[1], tất cả đều được Thiên Chúa làm cho hội tụ trong Đức Kitô: Chính Ngài loan báo Đức Kitô qua miệng các Tiên tri kế tiếp nhau ở Israel. Ngoài ra, Ngài còn khơi dậy trong tâm hồn các người ngoại giáo một sự chờ đợi chưa rõ ràng việc Con Thiên Chúa ngự đến.

Số 711. “Này Ta sắp làm một việc mới” (Is 43,19). Hai đường hướng tiên tri được phác hoạ, một đường dẫn đến sự mong đợi Đấng Messia; đường kia hướng đến việc loan báo một Thần Khí mới, hai đường hướng này đồng quy nơi “số sót” nhỏ bé, nơi dân của những người nghèo[2], họ đang mong đợi “niềm an ủi của Israel” và “sự cứu chuộc Giêrusalem” (Lc 2,25.38) trong niềm hy vọng.

Ở trên, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu hoàn thành những lời tiên tri nói về Người như thế nào. Ở đây, chúng ta giới hạn vào những lời tiên tri trong đó tương quan giữa Đấng Messia và Thần Khí của Người xuất hiện rõ ràng hơn.

Số 712. Những nét phác hoạ dung mạo Đấng Messia được mong đợi, bắt đầu được biểu lộ trong sách Emmanuel[3] (khi “ngôn sứ Isaia … đã thấy vinh quang” của Đức Kitô: Ga 12,41), đặc biệt trong đoạn văn Is 11,1-2:

“Từ gốc tổ Giessê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ,
Từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non.
Thần Khí Chúa sẽ ngự trên vị này:
Thần khí khôn ngoan và minh mẫn,
Thần khí mưu lược và dũng mãnh,
Thần khí hiểu biết và kính sợ Chúa”.

Số 713. Những nét phác hoạ về Đấng Messia được mạc khải chủ yếu trong các bài ca về Người Tôi trung[4]. Những bài ca này loan báo ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, và cho thấy cách Người sẽ đổ tràn Thần Khí để cho muôn người được sống: không phải từ bên ngoài, nhưng bằng cách “mặc lấy thân nô lệ” của chúng ta (Pl 2,7). Khi mang lấy cái chết của chúng ta trên mình Người, Người có thể truyền thông cho chúng ta Thần Khí riêng của Người, Thần Khí sự sống của Người.

Số 714. Chính vì vậy, Đức Kitô khởi đầu công cuộc loan báo Tin Mừng của Người bằng cách áp dụng cho mình đoạn sau đây của tiên tri Isaia (Lc 4,18-19)[5]:

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn,
Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha,
cho người mù biết họ được sáng mắt,
trả lại tự do cho người bị áp bức,
công bố một năm hồng ân của Chúa”.

Số 715. Các bản văn tiên tri trực tiếp liên quan đến việc sai Chúa Thánh Thần đến, là những lời sấm trong đó Thiên Chúa lấy ngôn ngữ Lời hứa mà nói vào trái tim của dân Ngài, bằng cung giọng yêu thương và trung tín[6], sáng ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô sẽ tuyên bố việc hoàn thành những điều đó[7]. Theo những lời hứa đó, trong “thời sau hết”, Thần Khí Thiên Chúa sẽ đổi mới trái tim người ta bằng cách ghi khắc Lề luật mới trong họ; Ngài sẽ quy tụ và giao hoà những dân tộc đã bị phân tán và chia rẽ; Ngài sẽ biến đổi công trình tạo dựng thứ nhất và Thiên Chúa sẽ ở đó với người ta trong hoà bình.

Số 716. Đoàn dân “của những người nghèo”[8], những người khiêm nhu và hiền lành, hoàn toàn phó thác cho kế hoạch bí nhiệm của Thiên Chúa của mình, những người mong chờ công lý không bởi người ta nhưng bởi Đấng Messia, đoàn dân ấy cuối cùng là công trình cao cả mà âm thầm của Chúa Thánh Thần, trải suốt thời gian của các Lời hứa, để chuẩn bị cho cuộc Ngự đến của Đức Kitô. Phẩm chất tâm hồn của những người đó, đã được thanh tẩy và soi sáng bởi Thần Khí, được diễn tả trong các Thánh vịnh. Nơi những ngươi nghèo này, Thần Khí chuẩn bị cho Chúa “một dân hoàn hảo”[9].

Số 722. Chúa Thánh Thần đã dùng ân sủng của Ngài mà chuẩn bị Đức Maria. Mẹ của Đấng “nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9) tất phải “đầy ơn phúc”. Đức Maria đã được thụ thai, trong ân sủng thuần tuý, không hề có tội, với tư cách là người khiêm tốn nhất trong các thụ tạo, xứng đáng nhất trong mọi người để đón nhận hồng ân khôn tả của Đấng Toàn Năng. Thiên thần Gabriel chào Mẹ cách chính xác là “Con gái Sion”: “Kính mừng” (= “Mừng vui lên”)[10]. Chính Mẹ, trong bài thánh ca của mình[11], đã làm cho lời tạ ơn của toàn dân Thiên Chúa và của Hội Thánh lên tới Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, khi Mẹ cưu mang nơi mình Chúa Con vĩnh cửu.

Số 523, 717-720: Sứ vụ của Thánh Gioan Tẩy Giả

Số 523. Thánh Gioan Tẩy Giả là vị Tiền Hô trực tiếp của Chúa[12], đã được sai đến để dọn đường[13]. Thánh nhân là “ngôn sứ của Đấng Tối Cao” (Lc l,76), troi vượt tất cả mọi Tiên tri[14], và là vị Tiên tri cuối cùng[15]. Thánh nhân khởi đầu Tin Mừng[16]; ngay từ trong lòng mẹ đã đón chào Đức Kitô đến[17], và tìm thấy niềm vui trong việc được làm “bạn của chú rể” (Ga 3,29), Đấng mà thanh nhân chỉ cho biết là Chiên “Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga l,29). Thánh nhân đi trước Chúa Giêsu trong “thần trí và quyền năng của ngôn sứ Êlia” (Lc 1,17), và làm chứng cho Người bằng lời rao giảng của mình, bằng phép rửa thống hối của mình và cuối cùng bằng cuộc tử đạo của mình[18].

Số 717. “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan” (Ga 1,6). Ông Gioan được “đầy Thánh Thần, ngay khi còn trong lòng mẹ” (Lc 1,15)[19], do chính Đức Kitô mà Đức Trinh Nữ Maria vừa thụ thai bởi Chúa Thánh Thần. Như vậy, việc Đức Maria “viếng thăm” bà Êlisabeth đã trở thành việc Thiên Chúa viếng thăm dân Ngài[20].

Số 718. Ông Gioan chính là “tiên tri Êlia phải đến”[21]: ngọn lửa của Thần Khí ở trong ông và làm cho ông (với tư cách là người “tiền hô”) “chạy trước” Chúa, Đấng ngự đến. Nơi ông Gioan, vị Tiền hô, Chúa Thánh Thần hoàn tất việc “chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1,17).

Số 719. Ông Gioan “còn hơn một Tiên tri nữa”[22]. Nơi ông, Chúa Thánh Thần hoàn thành việc “dùng các Tiên tri mà phán dạy”. Ông Gioan kết thúc hàng ngũ các Tiên tri khởi đầu từ ông Êlia[23]. Ông loan báo niềm an ủi Israel đã gần kề, là “tiếng” của Đấng An Ủi, Đấng ngự đến[24]. Chính ông, như Thần chân lý cũng sẽ làm, “đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng” (Ga 1,7)[25]. Nơi ông Gioan, Thần Khí hoàn thành “điều các tiên tri tìm hiểu” và các Thiên thần “ước mong”[26]: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi đã thấy, nên xin chứng thật rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn…. Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1,33-36).

Số 720. Cuối cùng, với ông Gioan Tẩy Giả, Chúa Thánh Thần khởi sự và biểu hiện trước những gì Ngài sẽ thực hiện với Đức Kitô và trong Đức Kitô: đó là phục hồi cho con người sự “giống như” Thiên Chúa. Phép rửa của ông Gioan là phép rửa thống hối, còn Phép Rửa trong nước và trong Thần Khí sẽ là sự tái sinh[27].

Số 710: Cuộc lưu đày của dân Israel báo trước về Cuộc Khổ Nạn

Số 710. Việc quên lãng Lề luật và bất trung với Giao Ước dẫn đến cái chết: cuộc lưu đày có vẻ là sự thất bại của các Lời hứa, mà thật ra là sự trung tín bí nhiệm của Thiên Chúa, Đấng cứu độ, và là khởi đầu của cuộc phục hồi như đã hứa, nhưng theo Thần Khí. Dân Thiên Chúa cần phải trải qua cuộc thanh tẩy này[28]; cuộc lưu đày mang bóng dáng cây thập giá trong kế hoạch của Thiên Chúa, và số sót những người nghèo trở về từ cuộc lưu đày, là một trong những hình ảnh rõ ràng nhất của Hội Thánh.

Số 2532, 2636: Sự quan tâm của Thánh Phaolô

Số 2532. Sự thanh tẩy trái tim đòi hỏi việc cầu nguyện, thực thi đức khiết tịnh, sự trong sạch của ý hướng và của cái nhìn.

Số 2636. Các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã nhiệt thành sống hình thức chia sẻ này[29]. Thánh Tông Đồ Phaolô đã cho các cộng đoàn đó tham gia vào thừa tác vụ Tin Mừng của ngài bằng cách này[30] nhưng ngài cũng chuyển cầu cho họ nữa[31]. Lời chuyển cầu của các Kitô hữu không có ranh giới: “Cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền” (1 Tm 2,1), cho những người bách hại[32], cho ơn cứu độ của những người từ khước Tin Mừng[33].

Bài Ðọc I: Br 5,1-9

“Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng của Chúa trong ngươi”.

Trích sách Tiên tri Barút.

Hỡi Giêrusalem, hãy cởi áo tang chế và sầu khổ của ngươi, hãy mặc lấy sự huy hoàng và vinh quang đời đời của Chúa mà Chúa ban cho ngươi. Chúa sẽ mặc cho ngươi áo công lý, và đặt vương miện vĩnh cửu trên đầu ngươi. Vì chưng, Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng của Chúa trong ngươi cho mọi kẻ trần gian. Vì Thiên Chúa sẽ đời đời gọi tên ngươi là Hoà bình trong công lý và Vinh dự trong hiếu nghĩa. Hỡi Giêrusalem, hãy chỗi dậy, đứng nơi cao, và nhìn về hướng đông. Hãy nhìn con cái ngươi từ đông sang tây họp lại theo lệnh của Đấng Thánh, họ hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ. Họ bị quân thù dẫn đi xa ngươi, nhưng Chúa đã đem họ về cho ngươi trong vinh dự như các hoàng tử. Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa, lấp đầy những hố sâu, để trái đất được bằng phẳng, hầu Israel vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa, những cánh rừng, những cây có hương thơm, đã cho Israel núp bóng, vì Chúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Israel đến ánh vinh quang.

Đó là lời Chúa.

Đáp ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

Xướng: 1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng tôi, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.

Bài Ðọc II: Pl 1,4-6.8-11

“Anh em hãy ăn ở trong sạch và không đáng trách cho đến ngày của Đức Kitô”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, luôn luôn trong mọi lời cầu nguyện của tôi, tôi hân hoan khẩn cầu cho tất cả anh em, vì anh em đã thông phần vào việc rao giảng Phúc Âm từ ngày đầu cho tới nay. Tôi tin tưởng rằng Đấng đã khởi đầu việc lành đó trong anh em, cũng sẽ hoàn tất cho đến ngày của Đức Giêsu Kitô. Vì Thiên Chúa làm chứng cho tôi rằng: Tôi yêu mến tất cả anh em với tâm tình của Đức Giêsu Kitô. Điều tôi cầu nguyện bây giờ là lòng bác ái của anh em ngày càng gia trong sự thông biết và am hiểu, để anh em xác định những điều quan trọng hơn, để anh em được trong sạch và không đáng trách cho đến ngày của Đức Kitô, anh em được Đức Giêsu Kitô ban cho dư đầy hoa quả công chính, hầu tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa.

Đó là lời Chúa.

Alleluia: Lc 3, 4.6

Alleluia, alleluia! – Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. – Alleluia.

Phúc Âm: Lc 3, 1-6

“Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Đời hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế, có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Dacaria, trong hoang địa. Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng: Có tiếng kêu trong hoang địa, hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Đó là lời Chúa.

_______

[1] X. Dt 9,15.

[2] X. Sp 2,3.

[3] X. Is 6-12.

[4] X. Is 42,1-9; Mt 12,18-21; Ga 1,32-34, atque etiam Is 49,16; Mt 3,17; Lc 2,32, et denique Is 50,4-10 et 52,13-15; 53,12.

[5] X. Is 61,1-2.

[6] X. Ed 11,19; 36,25-28; 37,1-14; Gr 31,31-34; Ge 3,1-5.

[7] X. Cv 2,17-21.

[8] X. Sp 2,3; Tv 22,27; 34,3; Is 49,13; 61,1; v.v….

[9] X. Lc 1,17.

[10] X. Sp 3,14; Dcr 2,14.

[11] X. Lc 1,46-55.

[12] X. Cv 13,24.

[13] X. Mt 3,3.

[14] X. Lc 7,26.

[15] X. Mt 11,13.

[16] X. Cv 1,22; Lc 16,16.

[17] X. Lc 1,41.

[18] X. Mc 6,17-29.

[19] X. Lc 1,41.

[20] X. Lc 1,68.

[21] X. Mt 17,10-13.

[22] X. Lc 7,26.

[23] X. Mt 11,13-14.

[24] X. Ga 1,23; Is 40,1-3.

[25] X. Ga 15,26; 5,33.

[26] X. 1 Pr 1,10-12.

[27] X. Ga 3,5.

[28] X. Lc 24,26.

[29] X. Cv 12,5; 20,36; 21,5; 2 Cr 9,14.

[30] X. Ep 6,18-20; Cl 4,3-4; 1 Tx 5,25.

[31] X. 2 Tx 1,11; Cl 1,3; Pl 1,3-4.

[32] X. Rm 12,14.

[33] X. Rm 10,1.