Loạt Bài Giáo lý về Thánh Giuse của Đức Phanxicô
Bài 1. Thánh Giuse và môi trường nơi ngài sống.
Bài 2. Thánh Giuse trong lịch sử cứu độ.
Bài 3. Thánh Giuse: người công chính và là chồng của Đức Maria.
Bài 4. Thánh Giuse người của sự thinh lặng.
Bài 5. Thánh Giuse, người di cư can đảm và bị bắt bớ.
Bài 6. Thánh Giuse, cha nuôi của Chúa Giêsu
Bài 7. Thánh Giuse, bác thợ mộc.
Bài 8. Thánh Giuse, người cha dịu dàng.
Bài 9. Thánh Giuse, người có những giấc mơ.
Bài 10. Thánh Giuse và Hiệp thông Các Thánh.
Bài 11. Thánh Giuse, quan thầy sự chết lành.
Bài 12. Thánh Giuse, quan thầy Giáo Hội
Bài 1. Thánh Giuse và môi trường nơi ngài sống
Theo tin Tòa Thánh, trong buổi yết kiến chung ngày 17 tháng 10 tại Đại sảnh Phaolô VI, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khởi đầu loạt bài giáo lý mới về Thánh Giuse. Sau đây là bài đầu tiên của ngài, dựa theo bản tiếng Ý của Tòa Thánh:
Anh chị em thân mến,
chào anh chị em buổi sáng!
Ngày 8 tháng 12 năm 1870, Chân phước Piô IX tuyên phong Thánh Giuse là bổn mạng của Giáo hội hoàn vũ. 150 năm sau biến cố đó, chúng ta đang trải nghiệm một năm đặc biệt dành riêng cho Thánh Giuse, và trong Tông thư Patris corde, tôi đã thu thập một số suy gẫm về con người của ngài. Chưa bao giờ như ngày hôm nay, trong thời điểm được đánh dấu bằng một cuộc khủng hoảng hoàn cầu với nhiều thành tố đa dạng, ngài có thể là chỗ dựa, niềm an ủi và người hướng dẫn. Đó là lý do tại sao tôi quyết định dành một chu kỳ giáo lý cho ngài, điều mà tôi hy vọng sẽ giúp chúng ta hơn nữa để chúng ta được soi sáng bởi gương sáng và lời chứng của ngài. Trong một vài tuần, chúng ta sẽ nói về Thánh Giuse.
Có hơn mười nhân vật trong Kinh thánh mang tên Giuse. Người quan trọng nhất trong số này là con trai của Giacóp và Raken, người, trải qua nhiều thăng trầm, từ một nô lệ trở thành người quan trọng thứ hai ở Ai Cập sau pharaô (x. St 37-50). Tên Giuse trong tiếng Do Thái có nghĩa là “Chúa làm gia tăng, Chúa làm cho nó lớn lên”. Đó là một ước muốn, một phước lành được xây dựng trên sự tin tưởng vào ơn quan phòng và đặc biệt nói đến sự sinh thành và lớn lên của trẻ em. Thật vậy, chính cái tên này đã tiết lộ cho chúng ta một khía cạnh thiết yếu trong nhân cách của Thánh Giuse thành Nadarét. Ngài là một người đầy đức tin, tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Mọi hành động của ngài được Tin Mừng thuật lại đều được thi hành với niềm tin chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ “làm cho nó lớn lên”, Thiên Chúa sẽ “gia tăng” nó, Thiên Chúa sẽ “thêm vào”, nghĩa là Thiên Chúa sẽ chu cấp để thực hiện chương trình cứu rỗi của Người. Và, trong điều này, Thánh Giuse thành Nadarét rất giống ông Giuse nước Ai Cập.
Ngay cả những tài liệu tham khảo địa lý chính có nhắc đến Thánh Giuse: Bêlem và Nadarét, cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu con người ngài.
Trong Cựu Ước, thành phố Bêlem (Bethlehem) được gọi bằng tên Beth Lechem, tức là “Nhà của bánh mì”, hay còn gọi là Épratha, theo tên bộ tộc định cư trên lãnh thổ đó. Tuy nhiên, trong tiếng Ả Rập, tên này có nghĩa là “Nhà của thịt”, có lẽ là do số lượng lớn các đàn cừu và dê trong khu vực. Thực vậy, không phải ngẫu nhiên mà khi Chúa Giêsu sinh ra, các mục đồng là những nhân chứng đầu tiên của biến cố (x. Lc 2: 8-20). Dưới ánh sáng câu chuyện về Chúa Giêsu, những ám chỉ về bánh và thịt ám chỉ mầu nhiệm Thánh Thể: Chúa Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống (x. Ga 6:51). Chính Người sẽ tự nói về mình: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sự sống đời đời” (Ga 6:54).
Bêlem được nhắc đến nhiều lần trong Kinh thánh, bắt đầu từ Sách Sáng thế. Câu chuyện về bà Rút và bà Naômi, được thuật lại trong Sách Rút, một sách nhỏ nhưng tuyệt vời, cũng liên quan đến Bêlem. Bà Rút sinh một người con trai tên là Ôvét, từ ông này, sinh ra Giétse, cha của Vua Đavít. Và chính từ dòng dõi của Đavít mà có Thánh Giuse, cha hợp pháp của Chúa Giêsu. Do đó, về Bêlem, tiên tri Mikha đã báo trước những điều lớn lao: ” Phần ngươi, hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen” (Mk 5: 1). Thánh sử Mátthêu sẽ tiếp nhận lời tiên tri này, ngài sẽ nối kết nó với câu chuyện về Chúa Giêsu cũng như sự ứng nghiệm hiển nhiên của nó.
Quả thật, Con Thiên Chúa không chọn Giêrusalem làm nơi nhập thể, mà là Bêlem và Nadarét, hai làng ngoại vi, cách xa tiếng ồn ào của tin tức và quyền lực thời bấy giờ. Thế mà Giêrusalem là thành phố được Chúa yêu thương (x. Is 62:1-12), là “thành thánh” (Đn 3:28), được Chúa chọn làm nơi cư ngụ (x. Dcr 3:2; Tv 132:13). Và quả thực, đây là nơi cư ngụ của các tiến sĩ Luật, kinh sư và người Pharisiêu, các thượng tế và các kỳ lão trong dân (xem Lc 2:46; Mt 15:1; Mc 3:22; Ga 1:19; Mt 26:3).
Đây là lý do tại sao sự lựa chọn Bêlem và Nadarét cho chúng ta biết rằng vùng ngoại vi và bên lề đều được Thiên Chúa ưu ái. Chúa Giêsu không sinh ra ở Giêrusalem với toàn thể triều đình… không: Người sinh ra ở vùng ngoại ô và sống cả đời mình, tới 30 năm, ở vùng ngoại vi đó, làm thợ mộc, như thánh Giuse. Đối với Chúa Giêsu, những vùng ngoại vi và những người bị gạt ra ngoài lề đều được quí mến hơn. Không coi trọng thực tại này cũng tương tự như không coi trọng Tin Mừng và công trình của Thiên Chúa, những điều tiếp tục tự biểu lộ ở các vùng ngoại vi địa lý và hiện sinh. Chúa luôn luôn hành động bí mật ở ngoại vi, cả trong linh hồn chúng ta, ở ngoại vi của linh hồn, của các cảm xúc, có lẽ cả những cảm xúc khiến chúng ta xấu hổ; nhưng Chúa ở đó để giúp chúng ta tiến về phía trước. Chúa tiếp tục tự tỏ mình ra ở các vùng ngoại vi, cả những vùng ngoại vi địa lý lẫn hiện sinh. Đặc biệt, Chúa Giêsu đi tìm những người tội lỗi, vào nhà họ, nói chuyện với họ, kêu gọi họ hoán cải. Và Người từng bị khiển trách về điều này. Thực vậy, các luật sĩ có lần nói: “Hãy xem kìa, vị Thầy này, hãy nhìn vị Thầy này: Ông ngồi ăn với những kẻ có tội, lây bẩn thỉu, đi tìm những người tuy không làm điều ác nhưng phải chịu đựng hậu quả của nó: người bệnh, người đói, người nghèo, người cùng hết. Chúa Giêsu luôn luôn đi đến các vùng ngoại vi. Và chắc chắn Người phải cho chúng ta rất nhiều tin tưởng về điều đó, vì Chúa biết vùng ngoại vi của trái tim chúng ta, vùng ngoại vi của linh hồn chúng ta, vùng ngoại vi của xã hội chúng ta, thành phố của chúng ta, gia đình của chúng ta, tức là cái phần hơi mù mờ mà chúng ta hay dấu diếm, có lẽ vì xấu hổ.
Về mặt này, xã hội lúc bấy giờ không khác xã hội của chúng ta bao nhiêu. Ngay cả ngày nay vẫn có một trung tâm và một vùng ngoại vi. Và Giáo Hội biết rằng mình được kêu gọi để loan báo tin mừng từ các vùng ngoại vi. Vốn là một thợ mộc xuất thân từ Nadarét và là người tin tưởng vào kế hoạch của Thiên Chúa dành cho vị hôn thê của ngài và cho chính ngài, Thánh Giuse nhắc nhở Giáo hội chú ý đến những gì mà thế giới cố tình phớt lờ. Hôm nay thánh Giuse dạy chúng ta điều này: “Đừng quá nhìn vào những điều thế gian ca tụng, hãy nhìn vào những góc khuất, những bóng tối, hãy nhìn những vùng ngoại vi, những gì thế gian không mong muốn”. Ngài nhắc nhở mỗi người chúng ta phải quý trọng những gì người khác vứt bỏ. Theo nghĩa này, ngài thực sự là một bậc thầy dạy những điều cốt yếu: ngài nhắc nhở chúng ta rằng những gì thực sự có giá trị không thu hút sự chú ý của chúng ta, mà đòi hỏi sự biện phân kiên nhẫn để được khám phá và trân quí. Anh chị em hãy tìm hiểu giá trị của nó. Chúng ta xin ngài cầu bầu để toàn thể Giáo hội có thể phục hồi cái nhìn này, khả năng biện phân này, khả năng đánh giá điều cốt yếu này. Chúng ta ra đi từ Bêlem, chúng ta ra đi từ Nadarét.
Hôm nay, tôi muốn gửi một thông điệp đến tất cả những người đàn ông và đàn bà đang sống ở những vùng ngoại vi địa lý bị lãng quên nhất trên thế giới hoặc những người đang sống trong hoàn cảnh bị gạt ra ngoài lề hiện sinh. Mong các bạn tìm thấy nơi Thánh Giuse một nhân chứng và một người bảo vệ để tìm đến. Chúng ta hãy hướng về ngài với lời cầu nguyện sau đây, một lời cầu nguyện “tự chế” xuất phát từ trái tim:
Lạy thánh Giuse,
ngài luôn tin cậy nơi Chúa,
và ngài đã lựa chọn
được hướng dẫn bởi sự quan phòng của Người,
xin dạy chúng con đừng phụ thuộc quá nhiều vào các dự án của mình,
nhưng vào kế hoạch tình yêu của Người.
Ngài xuất phát từ vùng ngoại ô,
xin giúp chúng con hoán cải cái nhìn của chúng con
và thích những gì thế gian vứt bỏ và gạt sang bên lề.
Xin an ủi những người cảm thấy cô đơn
và hỗ trợ những người đang âm thầm dấn thân
để bảo vệ sự sống và phẩm giá con người. Amen.
Bản dịch Việt ngữ: Vũ Văn An
Nguồn: vietcatholicnews.org
Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến: Trong năm Thánh Giuse này, hôm nay chúng ta bắt đầu một loạt bài giáo lý mới về người thợ mộc khiêm nhường ở Nazareth, cha nuôi của hài nhi Giêsu và là bổn mạng của Giáo hội Hoàn vũ. Trong tiếng Do Thái, tên Joseph (Giuse) gợi lên quyền năng của Đức Chúa Trời để mang lại sự phát triển và cuộc sống mới. Giuse dạy chúng ta hãy tin cậy nơi sự quan phòng của Thiên Chúa một cách lặng lẽ khi làm việc trong thế giới của chúng ta. Cuộc đời của ông chủ yếu gắn liền với hai thị trấn nhỏ, Bethlehem và Nazareth, nhắc nhở chúng ta rằng tình yêu ưu đãi của Thiên Chúa dành cho người nghèo và những người bên lề cuộc sống. Thiên Chúa đã chọn Bethlehem, thành của Đavít, làm nơi Con Ngài sinh ra dưới sự chăm sóc cẩn thận của Giuse, người thuộc nhà Đavít. Bằng cuộc đời và gương sáng của mình, Thánh Giuse nhắc nhở chúng ta rằng, trong thời đại của chúng ta, Giáo hội được kêu gọi để loan báo Tin Mừng về sự tái lâm của Chúa Kitô, bắt đầu từ những vùng ngoại vi hiện sinh của thế giới chúng ta. Những người nghèo và bị lãng quên ở giữa chúng ta có thể tìm đến anh ấy như một người hướng dẫn và người bảo vệ chắc chắn trong cuộc sống của họ. Chúng ta hãy cầu xin Thánh Giuse cầu bầu cho Giáo hội, để chúng ta luôn có thể lên đường từ Bethlehem một lần nữa, để nhìn thấy và đánh giá đúng những gì thiết yếu trong mắt Thiên Chúa.
Bài 2. Thánh Giuse trong lịch sử cứu độ
Anh chị em thân mến,
chào anh chị em buổi sáng!
Thứ Tư tuần trước, chúng ta đã bắt đầu một chu kỳ giáo lý về Thánh Giuse – năm dành riêng kính ngài sắp kết thúc. Hôm nay chúng ta sẽ tiếp tục cuộc hành trình này, tập chú vào vai trò của ngài trong lịch sử cứu độ.
Chúa Giêsu trong các Tin Mừng được gọi là “con ông Giuse” (Lc 3:23; 4: 22; Ga 1:45; 6:42) và “con bác thợ mộc” (Mt 13:55; Mc 6: 3). Thuật lại thời thơ ấu của Chúa Giêsu, các Thánh sử Mátthêu và Luca dành chỗ nói về vai trò của Thánh Giuse. Cả hai thánh sử đều thu thập một “gia phả” nhằm làm nổi bật tính lịch sử của Chúa Giêsu. Ngỏ lời trước hết với những người theo Kitô giáo gốc Do Thái, Thánh Mátthêu bắt đầu từ Ápraham và kết thúc ở Thánh Giuse, được xác định là “chồng của bà Maria, là người mà từ ngài Chúa Giêsu đã sinh ra, Đấng được gọi là Kitô” (1:16). Thánh Luca, mặt khác, đã ngược trở lại tới tận Ađam, bắt đầu trực tiếp với Chúa Giêsu, Đấng “là con trai của Giuse”, nhưng nói rõ hơn: “thiên hạ vốn coi” như thế (3:23). Do đó, cả hai Thánh sử đều trình bầy Thánh Giuse không như cha đẻ, nhưng dù sao, hoàn toàn là cha của Chúa Giêsu. Qua thánh nhân, Chúa Giêsu hoàn thành lịch sử giao ước và cứu rỗi giữa Thiên Chúa và loài người. Đối với Thánh Mátthêu, lịch sử này bắt đầu với Ápraham; đối với thánh Luca, lịch sử này bắt đầu với nguồn gốc loài người, nghĩa là, với Ađam.
Thánh sử Mátthêu giúp chúng ta hiểu rằng con người của Thánh Giuse, tuy bề ngoài có vẻ ở ngoài lề, kín đáo và ở hậu trường, nhưng thật ra là một yếu tố trung tâm trong lịch sử cứu độ. Thánh Giuse sống vai trò của mình mà không bao giờ tìm cách chiếm lãnh khung cảnh. Nếu chúng ta suy nghĩ thì hẳn thấy, “Cuộc sống của chúng ta được dệt nên và duy trì bởi những người bình thường, những người thường bị bỏ qua. Những người không xuất hiện trên hàng tít lớn của báo chí và tập san. … Có biết bao nhiêu người cha, người mẹ, ông bà và thầy cô đang chỉ cho con cái chúng ta, bằng những cách nhỏ nhặt và hàng ngày, biết cách chấp nhận và xử lý cuộc khủng hoảng bằng cách điều chỉnh các thông lệ, nhìn về phía trước và khuyến khích việc thực hành cầu nguyện. Biết bao người đang cầu nguyện, hy sinh và cầu bầu cho thiện ích của mọi người ”(Tông thư Patris corde, 1). Như thế, ai cũng có thể tìm thấy nơi Thánh Cả Giuse, con người không ai lưu ý, con người hiện diện hằng ngày, hiện diện kín đáo và giấu ẩn, một vị cầu thay nguyện giúp, một vị nâng đỡ và hướng dẫn trong những lúc khó khăn. Ngài nhắc nhở chúng ta rằng tất cả những người xem ra bị che giấu hoặc ở “hàng ghế thứ hai” đều là những nhân vật chủ đạo vô song trong lịch sử cứu độ. Thế giới cần những người đàn ông và đàn bà này: những người đàn ông và đàn bà ở hàng ghế thứ hai, nhưng là những người hỗ trợ sự phát triển cuộc sống của chúng ta, của mọi người trong chúng ta, và là những người, bằng việc cầu nguyện và bằng gương sáng của họ, bằng sự dạy dỗ của họ, đang nâng đỡ chúng ta trên nẻo đường cuộc sống.
Trong Tin Mừng thánh Luca, thánh Giuse xuất hiện như là người bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Maria. Và vì lý do này, ngài cũng là “Người bảo vệ Giáo Hội”: nhưng, nếu ngài là người bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Maria, ngài vẫn làm việc, dù nay ngài đang ở trên trời, và vẫn tiếp tục là người bảo vệ, trong trường hợp này là bảo vệ Giáo hội, vì Giáo hội là sự nối dài của Nhiệm thể Chúa Kitô trong lịch sử, ngay cả tình mẫu tử của Đức Maria cũng được phản ảnh trong tình mẫu tử của Giáo hội. Trong việc tiếp tục bảo vệ Giáo hội, xin anh chị em đừng quên điều này: ngày nay, Thánh Giuse vẫn đang bảo vệ Giáo hội, và bằng cách tiếp tục bảo vệ Giáo hội, ngài tiếp tục bảo vệ cả con lẫn mẹ của con”(sđd, 5). Khía cạnh này trong vai trò bảo vệ của Thánh Giuse là câu trả lời tuyệt vời cho câu chuyện của sách Sáng thế. Khi Thiên Chúa yêu cầu Cain giải trình về mạng sống của Abel, anh ta trả lời: ” Con là người giữ em con hay sao?” (4: 9). Với cuộc đời của mình, dường như thánh Giuse muốn nói với chúng ta rằng chúng ta luôn được mời gọi cảm nhận rằng chúng ta là người canh giữ anh chị em của chúng ta, những người bảo vệ những người thân cận với chúng ta, những người mà Chúa đã trao phó cho chúng ta trong nhiều hoàn cảnh của đời sống.
Một xã hội như xã hội của chúng ta, vốn được định nghĩa là “lỏng”, dường như nó không có tính nhất quán… Tôi xin điều chỉnh nhà triết học đã đưa ra câu định nghĩa này bằng cách nói rằng: hơn cả lỏng, nó là khí, một xã hội khí đúng nghĩa. Cái xã hội lỏng và khí này tìm thấy nơi câu chuyện của Thánh Giuse một dấu chỉ rất rõ ràng về tầm quan trọng của mối liên hệ giữa con người với nhau. Thật vậy, Tin Mừng cho chúng ta biết gia phả của Chúa Giêsu, không những chỉ vì lý do thần học, mà còn để nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng cuộc sống của chúng ta được tạo nên bởi những mối dây liên kết đến trước và đồng hành với chúng ta. Con Thiên Chúa đã chọn đến thế gian bằng con đường của những ràng buộc như vậy, con đường của lịch sử: Người không xuống thế gian bằng ma thuật, không. Người đã đi theo con đường lịch sử mà tất cả chúng ta đều đi.
Anh chị em thân mến, tôi nghĩ đến rất nhiều người khó tìm thấy mối dây liên kết có ý nghĩa trong cuộc sống của họ, và vì điều này mà họ lao đao, cảm thấy đơn độc, thiếu sức mạnh và dũng khí để tiếp tục bước đi. Tôi muốn kết thúc bằng một lời cầu nguyện để giúp họ, và tất cả chúng ta, tìm thấy nơi Thánh Giuse một đồng minh, một người bạn và một chỗ dựa.
Lạy Thánh Giuse,
ngài là người đã bảo vệ mối liên hệ với Đức Maria và Chúa Giêsu,
xin giúp chúng con biết quan tâm đến các mối liên hệ trong cuộc sống của chúng con.
Xin cho không một ai phải trải nghiệm cảm giác bị bỏ rơi vì cô đơn.
Xin cho mỗi người chúng con được hòa giải với lịch sử của chính chúng con,
với những người đã đi trước,
và nhận ra cả trong các sai lầm đã mắc phải
một con đường qua đó Chúa Quan phòng đã mở ra,
và cái ác không có lời quyết định cuối cùng.
Xin ngài tỏ mình là bạn của những người đang lao đao nhất,
và như ngài từng nâng đỡ Đức Maria và Chúa Giêsu trong những lúc khó khăn,
Xin nâng đỡ chúng con trong cuộc lữ hành của chúng con. Amen.
Bản dịch Việt ngữ: Vũ Văn An
Nguồn: vietcatholicnews.org
_____________________________________________
Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến: Trong loạt bài giáo lý về Thánh Giuse, hôm nay chúng ta xem xét vai trò quan trọng của ngài trong lịch sử cứu độ. Gia phả trong các Tin Mừng Matthêu và Luca trình bày Chúa Giêsu là “con ông Giuse” (Lc 3,23), và khẳng định rằng, tuy không phải là cha ruột của mình, nhưng Thánh Giuse vẫn thực hiện vai trò làm cha thực sự đối với mình. Matthêu cho thấy rằng Giuse, mặc dù là một nhân vật có vẻ ngoài lề, trên thực tế là trung tâm của việc mở ra lịch sử cứu rỗi và việc thực hiện các lời hứa của Thiên Chúa. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta cũng được kêu gọi đóng một vai trò nhỏ bé của mình trong việc truyền bá sứ điệp cứu độ của Tin Mừng. Luca miêu tả Giuse là người bảo vệ Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Ông cũng đảm nhận vai trò này với tư cách là Người bảo vệ Giáo hội Hoàn vũ, sự tiếp nối của Thân thể Chúa Kitô trong lịch sử. Gia phả của Giuse cũng nhắc nhở thế giới thường bị rạn nứt của chúng ta về tầm quan trọng của mối quan hệ nhân loại đi trước và theo sau chúng ta. Khi tìm cách củng cố những mối quan hệ đó và bảo vệ những anh chị em dễ bị tổn thương của mình thông qua các công việc bác ái huynh đệ, chúng ta hãy tin tưởng vào lời cầu nguyện của Giuse và noi gương vai trò khiêm nhường và trung thành của ngài trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa.
Bài 3. Thánh Giuse: người công chính và là chồng của Đức Maria
Anh chị em thân mến,
chào anh chị em buổi sáng!
Chúng ta hãy tiếp tục cuộc hành trình suy tư của chúng ta về con người của Thánh Cả Giuse. Hôm nay, tôi muốn đào sâu thêm về việc ngài là “người công chính” và là “người phối ngẫu đã hứa hôn của Đức Maria”, và do đó cung cấp một thông điệp cho mọi cặp đính hôn và cả những cặp mới cưới nhau. Nhiều biến cố liên quan đến Thánh Giuse đã trám đầy các câu chuyện ngụy thư, tức các sách Tin Mừng không có trong qui điển, nhưng vẫn đã gây ảnh hưởng đến nghệ thuật và những nơi thờ phượng khác nhau. Những trước tác không có trong Kinh thánh này là những câu chuyện do lòng đạo đức Kitô giáo cung cấp vào thời điểm đó và là lời đáp lại mong muốn lấp đầy chỗ trống trong các bản văn Tin mừng qui điển, những bản văn có trong Kinh thánh, cung cấp cho anh chị mọi điều chủ yếu về đức tin và đời sống Kitô giáo.
Thánh sử Mátthêu – đây là điều quan trọng. Tin Mừng nói gì về thánh Giuse? Không phải những gì các sách Tin Mừng ngụy thư này nói đều là điều gì đó xấu xí hay xấu xa, không! Chúng đẹp lắm, nhưng chúng không phải là Lời Chúa. Thay vào đó, các sách Tin Mừng trong Kinh thánh là Lời của Thiên Chúa. Trong số này, thánh sử Mátthêu định nghĩa thánh Giuse là một người “công chính”. Chúng ta hãy lắng nghe lời tường thuật của ngài: “Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô : bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (1: 18-19). Vì những người đã đính hôn, khi vị hôn thê không chung thủy, hoặc có thai, họ có thể buộc tội cô ấy! Họ phải làm thế. Và người phụ nữ sau đó bị ném đá. Nhưng Thánh Giuse là người công chính. Ngài nói: “Không, tôi sẽ không làm điều này. Tôi sẽ ra đi lặng lẽ”.
Để hiểu cách cư xử của Thánh Giuse đối với Đức Maria, điều hữu ích là nhớ các phong tục hôn nhân của dân Israel xưa. Hôn nhân bao gồm hai giai đoạn được xác định rõ ràng. Giai đoạn đầu tiên giống như cuộc đính hôn chính thức đã ngụ ý một tình huống mới. Đặc biệt, trong khi tiếp tục sống ở nhà cha mẹ thêm một năm nữa, người phụ nữ trên thực tế đã được coi là “vợ” của người bạn đời đã hứa hôn của mình rồi. Họ chưa sống với nhau, nhưng giống như cô ấy đã là vợ của một ai đó rồi. Giai đoạn thứ hai là chuyển cô dâu từ nhà cha mẹ sang nhà của người phối ngẫu. Điều này diễn ra với một đám rước lễ hội kết thúc đám cưới. Và những người bạn của cô dâu đã tháp tùng cô đến đó. Trên cơ sở các phong tục này, sự kiện “trước khi họ về chung sống với nhau, người ta đã phát hiện ra Đức Maria có thai” khiến Đức Trinh nữ bị buộc tội ngoại tình. Và, theo Luật cổ xưa, tội của bà phải chịu hình phạt bằng cách bị ném đá (x. Đnl 22: 20-21). Tuy nhiên, một cách giải thích ôn hòa hơn đã được áp dụng sau điều này trong thực hành của người Do Thái sau này vốn chỉ áp đặt hành vi rẫy bỏ với các hậu quả dân sự và hình sự đối với người phụ nữ, chứ không bị ném đá nữa.
Tin Mừng nói rằng Thánh Giuse là người “công chính” vì ngài phải tuân theo luật pháp như bất cứ người Israel ngoan đạo nào khác. Nhưng bên trong ngài, tình yêu của ngài dành cho Đức Maria và sự tin tưởng của ngài đặt nơi Đức Maria đã đề ra một cách ngài vừa có thể tuân thủ lề luật vừa cứu được danh dự của cô dâu mình. Ngài quyết định bỏ cô một cách bí mật, không gây ồn ào, không khiến cô phải chịu sự sỉ nhục trước công chúng. Ngài đã chọn con đường bảo mật, không đưa ra tòa xét xử hay trả đũa. Thánh Giuse thánh thiện biết bao! Còn chúng ta, ngay khi chúng ta có một chút chuyện tầm phào, một điều gì đó tai tiếng về người khác, chúng ta sẽ bàn tán về nó ngay lập tức! Thánh Giuse thì im lặng. Ngài im lặng.
Nhưng thánh sử Mátthêu nói thêm ngay lập tức: “Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng : ‘Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ’”(1: 20.21). Tiếng nói của Thiên Chúa can thiệp vào sự biện phân của Thánh Giuse. Trong một giấc mơ, Người mạc khải một ý nghĩa lớn hơn sự công chính của thánh nhân. Quan trọng xiết bao đối với mỗi người trong chúng ta là vun đắp một cuộc sống công chính, đồng thời, luôn cảm thấy cần sự giúp đỡ của Thiên Chúa để mở rộng tầm nhìn của chúng ta và suy xét các hoàn cảnh của cuộc sống từ một quan điểm luôn khác, rộng lớn hơn. Nhiều lần, chúng ta cảm thấy bị giam cầm bởi những gì đã xảy ra với mình: “Nhưng hãy nhìn xem điều gì đã xảy ra với tôi!” – và chúng ta mãi bị giam cầm trong điều tồi tệ đã xảy ra với chúng ta. Nhưng một cách đặc biệt, trước một số hoàn cảnh trong cuộc sống ban đầu có vẻ bi thảm, nhưng một ơn Quan phòng giấu ẩn sẽ thành hình theo thời gian và soi sáng ý nghĩa cho cả nỗi đau của chúng ta. Cơn cám dỗ là khép mình vào nỗi đau đó, cứ nghĩ rằng những điều tốt đẹp không bao giờ xảy ra với chúng ta. Và điều này không tốt cho chúng ta. Điều này dẫn anh chị em đến buồn bã và cay đắng. Trái tim cay đắng thật là xấu xí.
Tôi muốn chúng ta dừng lại để suy gẫm về một chi tiết của câu chuyện này được kể lại trong Tin Mừng mà thường chúng ta hay bỏ qua. Đức Maria và Thánh Giuse đã đính hôn với nhau. Có lẽ các ngài đã nuôi dưỡng những ước mơ và kỳ vọng về cuộc sống và tương lai của các ngài. Thật bất ngờ, Thiên Chúa dường như đã tự chen mình vào cuộc sống của các ngài và, dường như thoạt đầu các ngài khó mở lòng mình ra đón nhận thực tại đang đặt ra trước mặt các ngài.
Anh chị em thân mến, cuộc sống của chúng ta thường không như những gì chúng ta tưởng tượng. Nhất là trong các liên hệ yêu đương, khó có thể chuyển từ luận lý si tình sang luận lý tình yêu trưởng thành. Chúng ta cần chuyển từ mê đắm sang tình yêu trưởng thành. Anh chị em mới cưới nhau, anh chị em hãy nghĩ tới điều đó. Giai đoạn đầu tiên luôn được đánh dấu bằng một sự mê hoặc nào đó khiến chúng ta sống chìm đắm trong tưởng tượng thường không dựa trên thực tại và sự kiện, đây là giai đoạn si tình. Nhưng chính lúc si tình với những hoài mong dường như kết liễu, đó là lúc tình yêu đích thực bắt đầu hoặc tình yêu đích thực bước vào đó. Thực vậy, yêu không phải là kỳ vọng rằng người kia, hay cuộc sống kia, phải tương ứng với trí tưởng tượng của chúng ta. Đúng hơn, nó có nghĩa là hoàn toàn tự do lựa chọn để lãnh trách nhiệm cho cuộc sống mình khi nó xảy ra. Đó là lý do tại sao Thánh Giuse cho chúng ta một bài học quan trọng. Ngài chọn Đức Maria với “đôi mắt mở rộng của ngài”. Chúng ta có thể nói “với mọi rủi ro”. Anh chị em hãy suy nghĩ về điều này: trong Tin Mừng Thánh Gioan, một lời khiển trách mà các tiến sĩ luật ngỏ với Chúa Giêsu là: “chúng tôi đâu phải là con cái từ đó”, ám chỉ mãi dâm. Họ biết Đức Maria mang thai như thế nào và họ muốn bôi bẩn lên mẹ của Chúa Giêsu. Đối với tôi, đây là đoạn tồi tệ nhất, ma quỷ nhất, trong Tin Mừng. Và rủi ro của Thánh Giuse cho chúng ta bài học này: hãy đón nhận cuộc sống như nó xẩy đến. Chúa có can thiệp vào đó không? Tôi chấp nhận điều đó. Và Thánh Giuse thực hiện những gì sứ thần của Chúa đã ra lệnh: “ông đón vợ về nhà. Nhưng không ăn ở với bà”, bà đang mang thai con trai khi chưa chung sống với nhau, “cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu” (Mt 1,24-25). Các cặp đính hôn Kitô hữu được kêu gọi làm chứng cho một tình yêu như thế, phải có can đảm chuyển từ luận lý si tình sang luận lý của tình yêu trưởng thành. Đây là một sự lựa chọn đầy đòi hỏi, nhưng thay vì giam cầm cuộc sống, nó có thể củng cố tình yêu để tình yêu bền vững khi đối đầu với các thử thách của thời gian. Tình yêu lứa đôi tiến triển trong cuộc sống và trưởng thành hàng ngày. Tình yêu trong thời gian đính hôn có một chút – cho phép tôi sử dụng chữ này – một chút lãng mạn. Anh chị em đều đã trải qua điều này, nhưng rồi tình yêu trưởng thành bắt đầu, tình yêu sống mỗi ngày, từ việc làm, từ những đứa con sẽ đến… Và đôi khi tính lãng mạn đó biến mất một chút, phải không? Nhưng há đó không phải là tình yêu sao? Có, nhưng là tình yêu trưởng thành. “Nhưng Cha biết không, thưa Cha, đôi khi chúng con đánh nhau…” Điều này đã xảy ra từ thời ông Ađam và bà Evà cho đến ngày nay, đúng không! Vợ chồng đánh nhau là chuyện cơm bữa của chúng ta, đúng không! “Nhưng há chúng con không nên đánh nhau sao?” Có, có, anh chị em phải. Nó xảy ra. Tôi không nói anh chị em nên đánh nhau, nhưng nó sẽ xảy ra. “Và, thưa Cha, đôi khi chúng con lớn tiếng…” Điều đó cũng xảy ra. “Và thậm chí có những lúc đĩa bay”. Nó sẽ xảy ra. Nhưng có thể làm gì để điều này không làm tổn hại đến đời sống hôn nhân? Hãy nghe tôi nói: đừng bao giờ kết thúc một ngày mà không làm hòa với nhau. “Chúng mình đã đánh nhau. Chúa ơi, anh đã nói những lời tồi tệ. Anh đã nói những điều khủng khiếp. Nhưng bây giờ, để kết thúc một ngày, anh phải làm hòa ”. Anh chị em biết tại sao không? Vì chiến tranh lạnh vào ngày hôm sau rất nguy hiểm. Đừng để chiến tranh bắt đầu vào ngày hôm sau. Vì vậy, hãy làm hòa trước khi đi ngủ. “Nhưng, thưa Cha, Cha biết đấy, con không biết phải nói năng ra sao để làm hòa sau một tình huống khủng khiếp mà chúng con đã trải qua”. Rất dễ. Làm điều này (Đức Giáo Hoàng vuốt ve má của mình) thì hòa bình sẽ được lặp lại. Hãy luôn nhớ điều này. Hãy luôn nhớ rằng: không bao giờ kết thúc một ngày mà không làm hòa với nhau. Và điều này sẽ giúp ích cho anh chị em trong cuộc sống hôn nhân. Cho họ và cho tất cả các cặp vợ chồng đang ở đây. Sự chuyển dịch từ si tình qua tình yêu trưởng thành này là một sự lựa chọn đầy đòi hỏi, nhưng chúng ta phải chọn con đường đó.
Lần này cũng vậy, chúng ta hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện với Thánh Giuse.
Lạy Thánh Giuse,
Ngài đã tự do yêu thương Đức Maria,
và chọn từ bỏ những tưởng tượng của mình để nhường chỗ cho thực tại,
xin ngài giúp mỗi người chúng con biết ngạc nhiên trước Thiên Chúa
và chấp nhận cuộc sống không phải như một điều không lường trước được để tự bảo vệ mình,
nhưng như một mầu nhiệm che giấu bí quyết của niềm vui đích thực.
Xin ngài cầu bầu cùng Chúa ban niềm vui và tính triệt để cho mọi Kitô hữu đính hôn,
trong khi luôn ý thức rằng chỉ có lòng thương xót và sự tha thứ mới làm cho tình yêu trở nên khả hữu. Amen.
Cảm ơn anh chị em.
Bản dịch Việt ngữ: Vũ Văn An
Nguồn: vietcatholicnews.org
_____________________________________________
Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến: Trong loạt bài giáo lý của chúng ta về Thánh Giuse, hôm nay chúng ta suy ngẫm về sự mô tả của Thánh Mátthêu về Thánh Giuse vừa là “người công chính” vừa là “chồng của Đức Maria”. Là một người con sùng đạo của Israel, Giuse sẵn lòng tuân theo các yêu cầu của Luật pháp và các giới luật liên quan đến hôn nhân. Khi biết rằng Maria đã có con, vì tình yêu và sự quan tâm đối với cô ấy, Giuse đã tìm cách giải thoát cho cô ấy sự sỉ nhục của cuộc chia ly công khai. Sau đó, trong một giấc mơ, Giuse biết được từ một thiên thần rằng ông nên kết hôn với Maria là đúng, vì bà đã thụ thai con trai mình bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhờ sự quan phòng của Thiên Chúa, Giuse đã hiểu sâu hơn về công lý thiêng liêng và những đòi hỏi đích thực của nó. Sự cởi mở của Giuse và Maria đối với kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa khiến tình yêu của họ trưởng thành, thể hiện qua các đức tính khiết tịnh, trung thành, tôn trọng và khiêm nhường. Không hề hạn chế sự tự do của chúng ta, những đức tính này trên thực tế mang lại cho chúng ta định hướng và sự bền bỉ trong tình yêu. Theo nghĩa này, Thánh Giuse và Mẹ Maria có thể làm gương không chỉ cho những người trẻ đã đính hôn, mà còn cho tất cả chúng ta, những người đang ở giữa những thử thách không thể tránh khỏi của cuộc sống, được mời gọi khám phá niềm vui và tự do đích thực đến từ tin cậy vào sự quan tâm công bình và quan phòng của Thiên Chúa đối với cuộc sống của chúng ta.
Bài 4. Thánh Giuse người của sự thinh lặng
Anh chị em thân mến,
chào anh chị em buổi sáng!
Chúng ta tiếp tục suy tư về thánh Giuse. Sau khi đã trình bày về môi trường sống của ngài, vai trò của ngài trong lịch sử cứu độ, và trình bày về ngài như là người công chính và hôn phu của Mẹ Maria, hôm nay tôi muốn xem xét một khía cạnh quan trọng khác nơi con người ngài: đó là sự thinh lặng. Ngày nay, rất nhiều lần chúng ta cần sự thinh lặng. Thinh lặng rất quan trọng, tôi bị đánh động bởi một câu trong Sách Khôn ngoan, mà khi đọc nó tôi nghĩ về lễ Giáng sinh. Đó là: “Khi đêm chìm trong sự im lặng sâu thẳm nhất, thì lời của người đã xuống trần gian”. Trong khoảnh khắc im lặng nhất Thiên Chúa đã tự tỏ mình ra. Điều quan trọng là phải nghĩ về sự im lặng trong thời đại mà dường như nó không có nhiều giá trị lắm.
Các sách Phúc âm không tường thuật bất kỳ lời nào của thánh Giuse thành Nadarét. Ngài không nói lời nào. Điều này không có nghĩa là ngài là người lầm lì. Không! có một lý do sâu xa hơn. Với sự thinh lặng của mình, thánh Giuse xác nhận điều mà thánh Augustinô viết: “Theo thước đo mà Ngôi Lời – Ngôi Lời làm người – lớn lên trong chúng ta thì lời nói giảm đi”1. Theo thước đo mà Chúa Giêsu, đời sống thiêng liêng tăng lên, thì lời nói bớt đi. Chúng ta có thể nói rằng những người nói như vẹt bớt nói đi một tí. Chính thánh Gioan Tẩy Giả, là tiếng kêu trong hoang địa: “Hãy dọn đường cho Chúa” (Mt 3, 1), đã nói về Ngôi Lời: “Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3,30). Điều này có nghĩa là Người phải nói còn tôi phải im lặng. Qua sự thinh lặng của mình, thánh Giuse mời gọi chúng ta hãy dành chỗ cho sự Hiện diện của Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm, cho Chúa Giêsu.
Sự thinh lặng của thánh Giuse không phải là sự khuyết tật, không phải là sự lầm lì; đó là một sự im lặng đầy lắng nghe, một sự im lặng cần cù, một sự im lặng bộc lộ nội tâm cao cả của ngài. Thánh Gioan Thánh Giá nhận xét: “Chúa Cha đã nói một lời, và đó là Con của Người, và Lời này luôn luôn nói trong sự thinh lặng vĩnh cửu, và trong thinh lặng, Lời này phải được linh hồn lắng nghe”2.
Đức Thánh Cha nói tiếp: Chúa Giêsu đã được lớn lên trong “trường học” này, trong ngôi nhà ở Nadarét, với gương mẫu hàng ngày của Đức Maria và Thánh Giuse. Và không có gì ngạc nhiên khi chính Người đã tìm kiếm những khoảng thinh lặng trong những ngày của Người (x. Mt 14,23) và đã mời gọi các môn đệ hãy có một kinh nghiệm như thế: “Anh em hãy vào nơi vắng vẻ, nghỉ ngơi một lát” (Mc 6,31).
Thật tốt biết bao nếu mỗi người chúng ta, theo gương thánh Cả Giuse, có thể tìm lại chiều kích chiêm niệm của cuộc sống, được mở rộng cho sự thinh lặng. Nhưng từ kinh nghiệm, chúng ta đều biết rằng điều đó không hề dễ dàng: sự im lặng làm chúng ta sợ hãi đôi chút, bởi vì nó đòi chúng ta nhìn sâu hơn vào bản thân và đối diện với phần chân thật nhất của chúng ta. Rất nhiều người sợ sự im lặng, họ phải nói, hoặc nghe, radio, tivi…, nhưng họ không thể chấp nhận sự thinh lặng vì họ sợ. Triết gia Pascal nhận xét rằng “tất cả những bất hạnh của con người đều xuất phát từ một sự thật duy nhất, đó là họ không thể yên lặng trong căn phòng riêng của mình” 3.
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy học nơi thánh Giuse cách vun trồng những khoảng không gian thinh lặng, nơi mà một Lời khác, là Chúa Giêsu, Ngôi Lời, có thể xuất hiện: đó là lời của Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong chúng ta, Đấng mang Chúa Giêsu. Không dễ dàng để nhận ra Tiếng nói đó, vốn rất hay bị lẫn lộn cùng với muôn ngàn tiếng lo lắng, cám dỗ, ham muốn và hy vọng có trong lòng chúng ta; nhưng nếu không có sự huấn luyện thực sự từ việc thực hành im lặng này, thì ngay cả lời nói của chúng ta cũng có thể là tồi tệ, gây hại. Thay vì làm cho sự thật tỏa sáng, nó có thể trở thành một vũ khí nguy hiểm. Thật vậy, lời nói của chúng ta có thể trở thành xu nịnh, khoác lác, dối trá, đâm sau lưng và vu khống. Đó là một sự thật, như Sách Huấn Ca đã nhắc nhở chúng ta, “cái lưỡi giết hại nhiều hơn gươm giáo” (28,18). Chúa Giêsu đã nói rõ: bất cứ ai nói xấu anh chị em mình, ai nói xấu người thân cận, là kẻ giết người (x. Mt 5,21-22). Giết người bằng lưỡi. Chúng ta không tin điều này nhưng đó là sự thật. Chúng ta hãy suy nghĩ một chút về những lần chúng ta giết người bằng lưỡi của mình, chúng ta sẽ thấy xấu hổ! Nhưng suy nghĩ về điều này sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều.
Sự khôn ngoan trong Kinh Thánh khẳng định rằng “Sống hay chết đều do cái lưỡi, ai yêu chuộng nó sẽ lãnh nhận hậu quả” (Cn 18,21). Và trong thư của mình, như chúng ta đã đọc lúc đầu, thánh Giacôbê khai triển chủ đề cổ xưa này về quyền lực, khía cạnh tích cực và tiêu cực, của lời nói với những ví dụ nổi bật: “Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng kiềm chế toàn thân… Cái lưỡi cũng vậy: nó là một bộ phận nhỏ bé của thân thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to lớn… Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng lưỡi mà nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa. Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng và lời nguyền rủa” (3,2-10).
Đức Thánh Cha giải thích: Đây là lý do tại sao chúng ta phải học nơi thánh Giuse để trau dồi sự thinh lặng: không gian nội tâm trong ngày sống của chúng ta, trong đó chúng ta để cho Chúa Thánh Thần có cơ hội tái tạo chúng ta, an ủi và sửa chữa chúng ta. Tôi không bảo là hãy câm lặng. Không. Hãy thinh lặng. Nhưng mỗi người chúng ta hãy nhìn vào nội tâm, nhiều khi chúng ta đang làm một công việc và khi hoàn thành, ngay lập tức chúng ta tìm điện thoại di động để làm việc khác… chúng ta luôn như thế này. Và điều này không giúp ích được gì, điều này khiến chúng ta rơi vào tình trạng hời hợt. Chiều sâu của trái tim lớn lên cùng với sự thinh lặng, một sự thinh lặng không phải là câm lặng mà là khoảng trống cho sự khôn ngoan, suy tư và Thánh Thần. Chúng ta sợ những khoảnh khắc thinh lặng, đừng sợ! Nó sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều.
Và, điều thiện ích đối với trái tim của chúng ta cũng sẽ chữa lành cái lưỡi của chúng ta, lời nói của chúng ta và trên tất cả những lựa chọn của chúng ta. Trên thực tế, thánh Giuse đã kết hợp sự thinh lặng với hành động. Thánh nhân không nói, nhưng ngài đã hành động, và do đó thể hiện điều Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ của Người: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Thinh lặng, nói điều đúng, cắn lưỡi một chút đôi khi tốt cho bạn thay vì nói những điều vô nghĩa.
Chúng ta hãy kết thúc với lời kinh nguyện:
Lạy thánh Giuse, con người thinh lặng,
trong Tin Mừng ngài đã không nói một lời nào,
xin dạy chúng con đừng nói những lời vô ích,
để khám phá lại giá trị của những lời nói xây dựng, khuyến khích, an ủi và nâng đỡ.
Xin gần gũi những người phải chịu đựng những lời nói làm tổn thương,
như vu khống và đâm thọc sau lưng,
và xin giúp chúng con luôn kết hợp lời nói với việc làm. Amen.
Nguồn: https://www.vaticannews.va/
_____________________________________________
Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến: Trong phần tiếp tục bài Giáo lý về Thánh Giuse, chúng ta coi Thánh Giuse là “người của sự thinh lặng”. Các sách Phúc âm không tường thuật lời nào của ông, nhưng chúng trình bày Giuse như một kiểu mẫu về việc chú ý lắng nghe lời Chúa và hành động theo lời đó. Thật vậy, sự im lặng của Giuse là dấu hiệu của một trái tim biết chiêm nghiệm, xác nhận nhận xét của Thánh Augustinô rằng, “khi lời Chúa gia tăng thì lời nói của con người không thành” (Bài giảng 288: 5). Sự khiêm nhường thầm lặng của Giuse dạy chúng ta dành chỗ trong tâm hồn mình cho Chúa Giêsu Kitô, và do đó nhận biết ý muốn của Cha đối với cuộc sống của chúng ta. Chúa Giêsu học được tầm quan trọng của sự im lặng từ gương của Thánh Giuse và Mẹ Maria, và lần lượt dạy các môn đồ của ngài tu dưỡng điều đó. Chúng ta cũng được kêu gọi thực hiện sự im lặng trong nội tâm và chăm chú lắng nghe lời Chúa, kẻo những lo lắng, cám dỗ và sợ hãi hàng ngày của chúng ta khiến lời nói của chúng ta lạc lối và gây tổn thương cho người khác. Mặc dù không dễ dàng, nhưng nuôi dưỡng sự im lặng chiêm nghiệm là một con đường chắc chắn dẫn đến sự phát triển về bản thân và tinh thần đích thực. Ước gì chúng ta học được từ gương thinh lặng của Thánh Giuse để Chúa tràn đầy tâm hồn chúng ta và hướng dẫn lời nói của chúng ta trong việc phục vụ lẽ thật của Ngài và trong tình bác ái đối với tất cả anh chị em của chúng ta.
Bài 5. Thánh Giuse, người di cư can đảm và bị bắt bớ
Anh chị em thân mến,
chào anh chị em buổi sáng!
Hôm nay, tôi muốn trình bầy với anh chị em Thánh Giuse như một di dân bị bách hại và can đảm. Thánh sử Matthêu mô tả về ngài như thế. Biến cố đặc thù trong cuộc đời của Chúa Giêsu cũng liên quan đến Thánh Giuse và Mẹ Maria, theo truyền thống, được gọi là “cuộc chạy trốn sang Ai Cập” (x. Mt 2:13-23). Gia đình Nadarét đã phải chịu nỗi nhục nhã ấy và trực tiếp trải qua sự bấp bênh, sợ hãi và đau đớn khi phải rời bỏ quê hương. Ngày nay, rất nhiều anh chị em của chúng ta vẫn đang bị buộc phải trải qua cùng những bất công và đau khổ như vậy. Nguyên nhân thì hầu như luôn luôn là sự cao ngạo và bạo lực của kẻ quyền thế. Đây cũng là trường hợp của Chúa Giêsu.
Vua Hêrôđê biết được từ các đạo sĩ về sự ra đời của “Vua dân Do Thái”, và tin này làm ông chấn động. Ông cảm thấy bất an, ông cảm thấy quyền lực của mình đang bị đe dọa. Vì vậy, ông ta tập hợp tất cả những người lãnh đạo của Giêrusalem lại để tìm ra nơi Chúa Giêsu sinh ra, và yêu cầu các đạo sĩ thông báo cho ông ta những chi tiết chính xác, để – ông ta nói một cách giả dối – ông ta cũng sẽ đến và thờ lạy Người. Nhưng khi nhận ra các đạo sĩ đã trở về theo hướng khác, ông ta đã lên một kế hoạch độc ác: giết tất cả những đứa trẻ dưới hai tuổi ở Bêlem, đó là khoảng thời gian, theo tính toán của các Đạo sĩ, trong đó Chúa Giêsu đã sinh ra.
Trong lúc đó, một thiên sứ ra lệnh cho Thánh Giuse: “Hãy trỗi dậy, đem con trẻ và mẹ em chạy sang Ai Cập, và ở đó cho đến khi ta nói cho ông hay; vì Hêrôđê sắp tìm con trẻ để tiêu diệt em” (Mt 2:13). Ngày nay, anh chị em hãy nghĩ đến nhiều người cũng cảm thấy bị thôi thúc ở trong lòng: “Hãy chạy trốn, hãy chạy trốn, bởi vì có nguy hiểm ở đây”. Kế hoạch của Hêrôđê gợi ta nhớ đến kế hoạch của Pharaô đã ném tất cả trẻ trai của dân Do Thái xuống sông Nile (x. Xh 1:22). Việc lánh nạn sang Ai Cập gợi nhớ toàn bộ lịch sử của Dân Do Thái bắt đầu với Ápraham, người cũng đã trú ngụ ở đó (xem St 12:10); với Giuse, con Giacóp, bị anh em mình bán (xem St 37:36) trước khi trở thành “người cai trị lãnh thổ” (xem St 41: 37-57); và với Môsê, người đã giải phóng dân tộc mình khỏi ách nô lệ của người Ai Cập (x. Xh 1:18).
Chuyến lánh nạn của Thánh Gia sang Ai Cập đã cứu Chúa Giêsu, nhưng tiếc là nó không ngăn cản được Hêrôđê thực hiện vụ thảm sát của ông ta. Do đó, chúng ta phải đối đầu với hai nhân cách đối lập nhau: một mặt là Vua Hêrôđê với sự hung dữ, mặt khác là Thánh Giuse với sự quan tâm và lòng can đảm. Vua Hêrôđê muốn bảo vệ quyền lực của mình, chính làn da của mình, bằng sự tàn nhẫn không nương tay, như được chứng thực bằng việc hành quyết một trong những người vợ, một số con cái của ông ta và hàng trăm đối thủ. Ông ta là một người tàn nhẫn: để giải quyết vấn đề, ông ta chỉ có một giải pháp: giết. Ông ta là biểu tượng của nhiều bạo chúa trong quá khứ và ngày nay. Và đối với chúng, đối với những bạo chúa này, người dân không đáng kể; quyền lực mới đáng kể, và nếu họ cần có chỗ cho quyền lực, họ sẽ tiêu diệt người dân. Và điều này cũng đang xảy ra hôm nay: chúng ta không cần nhìn vào lịch sử cổ thời, nó đang xảy ra hôm nay. Ông ta là người đã trở thành “sói” cho những người khác. Lịch sử đầy rẫy những nhân vật như thế, những người sống với nhiều nỗi sợ hãi của họ, cố gắng chinh phục chúng bằng cách thực thi quyền lực một cách chuyên quyền và thực hiện các hành động bạo lực vô nhân đạo. Nhưng chúng ta không nên nghĩ rằng chúng ta chỉ sống theo quan điểm của Hêrôđê khi chúng ta trở thành bạo chúa, không; thật vậy, đó là một thái độ mà tất cả chúng ta đều có thể sa vào, mỗi khi chúng ta cố gắng xua tan nỗi sợ hãi bằng sự cao ngạo, dù chỉ bằng lời nói, hoặc tạo ra các hành vi lạm dụng nho nhỏ nhằm hành hạ những người thân cận của chúng ta. Chúng ta cũng có trong lòng khả thể trở thành những Hêrôđê nho nhỏ.
Thánh Giuse đối lập với Hêrôđê: trước hết, ngài là “người công chính” (Mt 1:19), còn Hêrôđê là một người độc tài. Hơn nữa, ngài chứng tỏ ngài can đảm làm theo mệnh lệnh của Thiên thần. Người ta có thể hình dung ra những thăng trầm ngài phải đối diện trong cuộc hành trình lâu dài và nguy hiểm và những khó khăn liên quan đến việc ở lại một đất nước xa lạ, với một ngôn ngữ khác: rất nhiều khó khăn. Lòng can đảm của ngài cũng bộc lộ trong lúc ngài hồi hương, khi được Thiên Thần trấn an, ngài vượt qua nỗi sợ hãi có thể hiểu được của mình và cùng với Đức Maria và Chúa Giêsu định cư ở Nadarét (x. Mt 2:19-23). Hêrôđê và thánh Giuse là hai nhân vật đối lập nhau, phản ảnh hai bộ mặt muôn thuở của nhân loại. Một quan niệm sai lầm phổ biến là coi lòng can đảm là đức tính riêng của người anh hùng. Trong thực tế, cuộc sống hàng ngày của mỗi người đều đòi hỏi lòng can đảm. Cách sống của chúng ta – của anh chị em, của tôi, của mọi người: người ta không thể sống mà không có lòng can đảm, lòng can đảm để đối đầu với các khó khăn hàng ngày. Trong mọi thời đại và mọi nền văn hóa, chúng ta đều thấy những người đàn ông và đàn bà can đảm, những người, để nhất quán với các niềm tin của họ, đã vượt qua mọi khó khăn, và chịu đựng bất công, kết án và thậm chí cả cái chết nữa. Lòng can đảm đồng nghĩa với lòng dũng cảm, một đức tính cùng với sự công bằng, khôn ngoan và tiết độ là một phần của nhóm các nhân đức nhân bản vốn được gọi là “các nhân đức chính”.
Bài học mà Thánh Giuse để lại cho chúng ta hôm nay là: cuộc sống luôn có sẵn cho chúng ta những nghịch cảnh, điều này đúng, khi đứng trước chúng, chúng ta cũng có thể cảm thấy bị đe dọa và sợ hãi. Nhưng không phải bằng cách biểu lộ điều tồi tệ nhất của bản thân, như Hêrôđê, chúng ta có thể vượt qua những khoảnh khắc nhất định, nhưng bằng cách hành động giống như Thánh Giuse, vị thánh đã phản ứng chống nỗi sợ hãi bằng lòng can đảm tin cậy vào sự Quan phòng của Thiên Chúa. Hôm nay tôi nghĩ chúng ta cần một lời cầu nguyện cho tất cả những người di cư; những người di cư và tất cả những người bị bách hại, và tất cả những ai là nạn nhân của những nghịch cảnh bất lợi: chúng có thể là hoàn cảnh chính trị, lịch sử hoặc bản thân. Nhưng, chúng ta hãy nghĩ đến rất nhiều người là nạn nhân của các cuộc chiến tranh, những người muốn chạy trốn khỏi quê hương của họ nhưng không thể chạy trốn; chúng ta hãy nghĩ đến những người di cư đã lên đường để được tự do, rất nhiều người trong số họ đã kết thúc trên đường phố hoặc trên biển cả; Chúng ta hãy nghĩ đến Chúa Giêsu trong vòng tay của Thánh Giuse và Mẹ Maria, đang chạy trốn, và chúng ta hãy nhìn thấy nơi Người từng người trong số những người di cư của ngày hôm nay. Di cư ngày nay là một thực tại mà chúng ta không thể nhắm mắt. Đó là một tai tiếng xã hội của nhân loại.
Lạy Thánh Giuse,
ngài là người đã trải qua sự đau khổ của những người phải chạy trốn
ngài là người đã bị buộc phải chạy trốn
để cứu mạng của những người thân yêu nhất của ngài,
xin bảo vệ tất cả những người đang chạy trốn vì chiến tranh,
hận thù, đói khát.
Xin trợ giúp họ trong các khó khăn của họ,
Xin củng xố họ trong hy vọng, và để họ tìm được sự chào đón và liên đới.
Xin hướng dẫn các bước đi của họ và mở rộng trái tim của những người có thể giúp họ. Amen.
Nguồn: http://vietcatholicnews.org/
_____________________________________________
Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến: Trong phần tiếp tục dạy giáo lý về Thánh Giuse, giờ đây chúng ta xem xét sự can đảm của Thánh Giuse khi đối mặt với sự bắt bớ. Giống như nhiều anh chị em của chúng ta ngày nay phải đối mặt với bất công hoặc bạo lực, Giuse và Maria buộc phải di cư khỏi quê hương của họ, để chạy trốn cơn thịnh nộ của Vua Hêrôđê. Bị các đạo sĩ lừa về vị trí chính xác nơi Chúa sinh ra đời, Hêrôđê tìm cách giết tất cả trẻ em nam ở Bethlehem từ hai tuổi trở xuống. Để đáp lại thông điệp của một thiên thần, Giuse đã can đảm đưa Thánh Gia vào cuộc hành trình đầy hiểm nguy đến Ai Cập. Khi họ trở về đất Israel, Giuse dẫn họ đến Galilê để lập gia đình ở Nazarét, an toàn trước sự đe dọa của kẻ kế vị Hêrốt. Trong khi Hêrôđê là hiện thân của sự tàn ác, kiêu ngạo và hung hăng, ngược lại, Giuse chỉ cho chúng ta cách đối phó với những thử thách và khó khăn của chính mình bằng tình yêu thương nhân đức, can đảm tin cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Khi nhớ lại lòng dũng cảm và tình yêu thương mà thánh Giuse đã thể hiện trong chuyến đi đến Ai Cập, chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả những ai, giống như Thánh Gia, thấy mình buộc phải rời bỏ quê hương, rằng họ sẽ được ban phước với lòng can đảm của Thánh Giuse.
Bài 6. Thánh Giuse, cha nuôi của Chúa Giêsu
Anh chị em thân mến,
chào anh chị em buổi sáng!
Hôm nay chúng ta sẽ suy gẫm về Thánh Giuse, cha của Chúa Giêsu. Các thánh sử Mátthêu và Luca trình bày ngài như cha nuôi của Chúa Giêsu, chứ không phải là cha ruột của Người. Thánh Mátthêu chỉ rõ điều này, tránh dùng công thức “cha của”, được dùng trong gia phả cho tất cả tổ tiên của Chúa Giêsu; thay vào đó, ngài định nghĩa Thánh Giuse là “chồng của bà Maria, người đã sinh ra Chúa Giêsu, Đấng được gọi là Chúa Kitô” (1,16). Mặt khác, Thánh Luca khẳng định điều này bằng cách nói rằng ngài là cha “được cho là” của Chúa Giêsu (3,23), tức là xem ra ngài là cha của Người.
Để hiểu được mối liên hệ cha con được cho là hợp pháp của Thánh Giuse, cần phải nhớ rằng vào thời cổ xưa ở phương Đông, định chế nhận con nuôi rất phổ biến, hơn ngày nay. Người ta nghĩ đến trường hợp thông thường ở Do Thái về “luật Lêvi”, như được trình bày trong Đệ nhị luật: “Nếu anh em sống với nhau, mà một trong số họ chết mà không có con trai, thì vợ của người chết sẽ không được kết hôn ngoài gia đình với một người lạ; em trai của chồng sẽ đến với cô ấy, và lấy cô ấy làm vợ, và thực hiện nghĩa vụ của một người em chồng đối với cô ấy. Và con trai đầu lòng mà cô ấy cưu mang sẽ nối nghiệp tên người anh đã chết, hầu cho tên của người đó không bị xóa khỏi Israel”(25,5-6). Nói cách khác, cha của đứa trẻ này là em rể, nhưng người cha hợp pháp vẫn là người đã chết, người cho đứa trẻ mới sinh tất cả các quyền di sản. Mục đích của luật này gồm hai mặt: đảm bảo dòng dõi của những người đã qua đời và bảo tồn di sản. Với tư cách là cha chính thức của Chúa Giêsu, Thánh Giuse thực hiện quyền đặt tên cho con trai mình, thừa nhận cậu về mặt pháp lý. Về mặt pháp lý, ngài là cha, nhưng không phải về mặt sinh sản; ngài đã không sinh ra Người.
Thời xưa, tên là bản tóm tắt căn tính của một người. Thay đổi tên của mình có nghĩa là thay đổi chính mình, như trong trường hợp của Ápraham, tên mà Đức Chúa Trời đã đổi thành “Ápraham”, có nghĩa là “cha của nhiều người”, “vì”, Sách Sáng thế nói, ông sẽ là “cha của nhiều dân tộc ”(17,5). Điều tương tự cũng đã xảy ra với Giacóp, người sẽ được gọi là “Israel”, nghĩa là “người đấu tranh với Thiên Chúa”, vì ông đã vật nhau với Thiên Chúa để buộc Người ban phúc cho mình (xem St 32:29; 35:10).
Nhưng trên hết, đặt tên cho ai hoặc một điều gì đó có nghĩa là khẳng định quyền hạn của mình đối với những người hoặc vật được đặt tên, như Ađam đã làm khi đặt tên cho tất cả các loài vật (xem St 2: 19-20).
Thánh Giuse biết rằng, đối với con trai của bà Maria, một cái tên đã được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn – tên Giêsu được đặt cho Người bởi người cha thật của Người, là Thiên Chúa – “Giêsu”, có nghĩa là “Chúa cứu”; như Thiên Thần giải thích, “Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Khía cạnh đặc biệt này của Thánh Giuse giờ đây cho phép chúng ta suy gẫm về tình phụ tử và tình mẫu tử. Và tôi tin điều này rất quan trọng: nghĩ về việc làm cha ngày nay. Bởi vì chúng ta đang sống trong một thời đại có tiếng là mồ côi, phải không? Thật là lạ: nền văn minh của chúng ta là một điều gì đó của trẻ mồ côi, và người ta cảm nhận được tình trạng mồ côi này. Xin Thánh Cả Giuse, người thay thế cho người cha thật là Thiên Chúa, giúp chúng ta hiểu cách giải quyết cảm thức mồ côi đang gây hại cho chúng ta ngày nay.
Đem một đứa trẻ vào đời không đủ để trở thành cha hoặc mẹ của đứa trẻ. “Những người cha không được sinh ra, mà được tạo ra. Một người đàn ông không trở thành một người cha chỉ đơn giản bằng cách đem một đứa trẻ vào đời, mà bằng cách nhận trách nhiệm chăm sóc đứa trẻ đó. Bất cứ khi nào một người đàn ông chịu nhận trách nhiệm về cuộc sống của người khác, thì cách nào đó, họ trở thành cha đối với người đó ”(Tông thư Patris corde). Tôi đặc biệt nghĩ đến tất cả những ai đang mở lòng đón nhận cuộc sống bằng cách nhận con nuôi, đây là một thái độ tốt đẹp và rộng lượng. Thánh Giuse cho chúng ta thấy rằng dây nối kết này không phải là thứ yếu; nó không phải là một hậu ý, không phải. Loại lựa chọn này là một trong những hình thức cao nhất của tình yêu, tình phụ tử và tình mẫu tử. Có bao nhiêu trẻ em trên thế giới đang đợi ai đó chăm sóc chúng! Và biết bao nhiêu cặp vợ chồng muốn làm cha, làm mẹ nhưng không thể thực hiện được vì lý do sinh học; hoặc, mặc dù đã có con nhưng họ muốn chia sẻ tình âu yếm gia đình với những người chưa có tình cảm này. Chúng ta không nên sợ chọn con đường nhận con nuôi, chấp nhận “rủi ro” khi chào đón trẻ em. Và ngày nay, với tình trạng mồ côi, có một sự ích kỷ nào đó. Có lần, tôi đã nói về mùa đông nhân khẩu hiện có ngày nay, trong đó chúng ta thấy rằng người ta không muốn có con, hoặc chỉ có một con và không muốn thêm nữa. Và rất nhiều cặp vợ chồng không có con vì họ không muốn, hoặc họ chỉ có một con – nhưng lại có đến hai con chó, hai con mèo… Đúng vậy, chó và mèo thay thế cho những đứa trẻ. Vâng, tôi hiểu điều đó thật buồn cười, nhưng đó là thực tại. Và sự bác bỏ tình phụ tử này làm chúng ta giảm thiểu, nó lấy đi nhân tính của chúng ta. Và theo cách này, nền văn minh trở nên già cỗi và không có tình người, vì nó làm mất đi sự phong phú của tình phụ tử và mẫu tử. Và quê hương của chúng ta chịu thiệt thòi, vì nó không có trẻ em, và, như người ta đã nói một cách hài hước, “và bây giờ ai sẽ trả tiền thuế để trả lương hưu cho tôi, nếu không có con cái?”: môt cách hài hước, nhưng đó là sự thật. Ai sẽ chăm sóc tôi? Tôi xin Thánh Giuse ân sủng để đánh thức các lương tâm suy nghĩ về điều này: về việc có con. Tình phụ tử và tình mẫu tử là lẽ viên mãn của đời người. Anh chị em hãy nghĩ về điều này. Đúng là, có tình phụ tử thiêng liêng của những người dâng mình cho Thiên Chúa, và tình mẫu tử thiêng liêng; nhưng những ai sống trên đời và lập gia đình, hãy nghĩ đến việc có con, trao ban sự sống mà chúng sẽ lãnh nhận từ anh chị em cho tương lai. Và ngoài ra, nếu anh chị em không thể có con, hãy nghĩ đến việc nhận con nuôi. Đó là một rủi ro, đúng thế: có con, một cách tự nhiên hay do nhận nuôi, luôn luôn là một rủi ro. Nhưng sẽ rủi ro hơn nếu không có chúng. Sẽ rủi ro hơn nếu bác bỏ tình phụ tử, hoặc bác bỏ tình mẫu tử, dù là thực chất hay thiêng liêng. Nhưng bác bỏ, một người đàn ông hay một người đàn bà không khai triển cảm thức làm cha, làm mẹ, họ đang thiếu một điều gì đó, một điều căn bản, một điều gì đó quan trọng. Anh chị em hãy suy nghĩ về điều này, xin làm ơn.
Tôi mong rằng các định chế sẽ luôn sẵn sàng giúp đỡ việc nhận con nuôi, bằng cách giám sát nghiêm túc nhưng cũng đơn giản hóa các thủ tục cần thiết để giấc mơ của biết bao đứa trẻ cần một gia đình, và của biết bao cặp vợ chồng mong muốn hiến thân trong tình yêu, có thể trở thành sự thật. Cách đây ít lâu, tôi có nghe chứng từ của một người, một bác sĩ – một nghề quan trọng – không có con, và ông và vợ ông quyết định nhận một đứa trẻ làm con nuôi. Và khi đến lúc, họ được đề nghị một em, và họ được cho biết: “Nhưng chúng tôi không biết sức khỏe của đứa trẻ này như thế nào. Có lẽ em có bệnh”. Và ông ta nói – Tôi đã nhìn thấy em rồi – ông nói, “Nếu cô hỏi tôi điều này trước khi đến đây, có lẽ tôi đã nói không. Nhưng tôi đã nhìn thấy đứa trẻ: Tôi sẽ đưa em đi với tôi”. Đây là niềm khao khát được làm cha nuôi, được làm mẹ nuôi. Anh chị em đừng sợ điều này.
Tôi cầu nguyện để không ai cảm thấy thiếu mối dây ràng buộc tình cảm cha con. Và những người chịu ảnh hưởng của cảnh mồ côi, mong họ tiến bước mà không còn cảm giác khó chịu này. Xin Thánh Giuse che chở, và giúp đỡ cho trẻ mồ côi; và xin ngài cầu bầu cho những cặp vợ chồng muốn có con. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện để được điều này:
Lạy Thánh Giuse,
ngài là người đã yêu thương Chúa Giêsu bằng tình yêu thương của người cha,
xin ngài gần gũi rất nhiều trẻ em chưa có gia đình
và hằng khao khát có bố có mẹ.
Xin ngài hỗ trợ các cặp vợ chồng không thể sinh con,
giúp họ khám phá ra, qua đau khổ này, một kế hoạch lớn hơn.
Xin ngài bảo đảm để không một ai thiếu một mái ấm, một mối dây nối kết,
một người để chăm sóc họ;
và xin ngài chữa lành lòng ích kỷ của những người khép mình đối với sự sống, xin cho họ biết mở lòng ra đối với tình yêu.
Cảm ơn anh chị em.
Nguồn: http://vietcatholicnews.org/
_____________________________________________
Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến: Tiếp tục loạt bài giáo lý của chúng ta về Thánh Giuse, hôm nay chúng ta coi phẩm giá của Thánh Giuse là cha nuôi của Chúa Giêsu, do Đức Trinh Nữ Maria sinh ra. Là chồng của Maria và là cha hợp pháp của Chúa Giêsu, thánh Giuse có tất cả các quyền của một người cha, bao gồm cả quyền đặt tên cho con. Tuy nhiên, thánh Giuse đã học được từ thiên thần rằng, trong kế hoạch của Thiên Chúa, Con của Maria được đặt tên là Giêsu, có nghĩa là “Chúa cứu”. Sự ngoan ngoãn của thánh Giuse đối với ý muốn của Thiên Chúa và sự quan tâm chăm sóc của người cha dành cho đứa trẻ Giêsu có thể dạy chúng ta nhiều điều về ý nghĩa đích thực của việc làm cha mẹ. Trở thành một người mẹ hoặc một người cha không chỉ đơn giản là một vấn đề sinh học; sâu xa hơn, nó kéo theo sự chăm lo cho cuộc sống của một gia đình. Theo nghĩa này, một trong những hình thức làm cha mẹ cao nhất là đảm nhận trách nhiệm trở thành cha mẹ nuôi, sẵn sàng chào đón một đứa trẻ mồ côi hoặc bị bỏ rơi như một phần của gia đình riêng của họ. Chúng ta hãy cầu nguyện rằng nhờ lời chuyển cầu của Thánh Giuse, những người cha trong các gia đình sẽ được ân sủng để đáp lại ơn gọi cao quý của họ, và nhiều trẻ em trên thế giới đang khao khát một ngôi nhà an toàn và yêu thương sẽ tìm thấy sự chào đón quảng đại, yêu thương từ các gia đình.
Bài 7. Thánh Giuse, bác thợ mộc
Anh chị em thân mến,
chào anh chị em buổi sáng!
Các thánh sử Mátthêu và Máccô gọi Thánh Giuse là “bác thợ mộc”. Trước đó, chúng ta đã nghe thấy người dân ở Nadarét, khi nghe Chúa Giêsu nói, đã tự hỏi: “Đây không phải là con của bác thợ mộc hay sao?” (13,55; xem Mc 6,3). Chúa Giêsu đã thực hành nghề của cha mình.
Thuật ngữ tekton trong tiếng Hy Lạp, được sử dụng để chỉ công việc của Thánh Giuse, đã được dịch theo nhiều cách khác nhau. Các Giáo phụ Latinh dịch là “thợ mộc”. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng vào thời Palestine của Chúa Giêsu, gỗ không chỉ được sử dụng để làm máy cày và các đồ nội thất khác nhau, mà còn dùng để xây nhà, vốn có khung bằng gỗ và mái nhà có nóc dùng làm sân làm bằng những chiếc đà nối với cành cây và đất.
Do đó, “thợ mộc” là một chữ chung chung, chỉ cả thợ mộc lẫn thợ thủ công tham gia vào các hoạt động liên quan đến xây dựng. Đó là một việc làm khá vất vả, phải làm việc với các vật liệu nặng như gỗ, đá và sắt. Xét về quan điểm kinh tế, nó không bảo đảm thu nhập lớn, như có thể suy ra từ việc Đức Maria và thánh Giuse, khi dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ, chỉ dâng đôi chim gáy hoặc chim bồ câu (x. Lc 2,24), như Luật đã quy định cho người nghèo (x. Lv 12,8).
Như thế, cậu bé Giêsu đã học nghề này từ cha mình. Vì vậy, khi trưởng thành, Người bắt đầu rao giảng, những người hàng xóm ngạc nhiên hỏi: “Nhưng người này do đâu mà có sự khôn ngoan và những công việc vĩ đại này?” (Mt 13,54), và họ đã vấp phạm vì Người (x. câu 57), vì Người là con bác thợ mộc, nhưng Người ăn nói như một luật sĩ, và họ vấp phạm vì điều này.
Sự kiện tiểu sử về Thánh Giuse và Chúa Giêsu này khiến tôi liên tưởng đến tất cả những người lao động trên thế giới, đặc biệt là những người làm công việc mệt nhọc trong các hầm mỏ và một số nhà máy nào đó; những người bị bóc lột qua công việc không có giấy tờ; các nạn nhân của lao động: chúng ta đã thấy rất nhiều cảnh này ở Ý mấy lúc gần đây; những đứa trẻ buộc phải làm việc và những em lục lọi thùng rác để tìm kiếm thứ gì đó có thể bán được…
Tôi xin nhắc lại những gì tôi đã nói: những công nhân giấu mặt, những công nhân lao động nặng nhọc trong các hầm mỏ và trong một số nhà máy nào đó: chúng ta hãy nghĩ đến họ. Chúng ta hãy nghĩ về họ. Chúng ta hãy nghĩ về những người bị bóc lột với công việc không được khai báo, những người được trả lương lậu, một cách ranh mãnh, không có lương hưu, không có bất cứ điều gì cả. Và nếu anh chị em không làm việc, anh chị em sẽ không có an sinh xã hội. Công việc không có giấy tờ. Và ngày nay có rất nhiều công việc không có giấy tờ.
[Chúng ta hãy nghĩ đến] những nạn nhân của việc làm, những người bị tai nạn lao động. Đối với những đứa trẻ bị buộc phải làm việc: điều này thật khủng khiếp! Một đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi chơi, đáng lẽ được chơi, bị bắt phải lao động như một người lớn! Trẻ em bị buộc phải làm việc. Và trong số đó – những em đáng thương! – những em lục lọi các bãi rác để tìm kiếm thứ gì đó có thể bán được: các em đến các bãi rác… Tất cả những người này là anh chị em của chúng ta, những người kiếm sống bằng cách này: người ta không dành cho họ một nhân phẩm! Chúng ta hãy nghĩ về điều đó. Và điều đó đang xảy ra ngày nay, trên thế giới, điều đó đang xảy ra ngày nay.
Nhưng tôi cũng nghĩ đến những người không có việc làm. Có bao nhiêu người đi gõ cửa các nhà máy, xí nghiệp [hỏi] “Có việc gì để làm không?” – “Không, không có gì, không có gì cả”. [Tôi nghĩ] đến những người cảm thấy nhân phẩm của họ bị tổn thương vì họ không thể tìm ra việc làm này. Họ trở về nhà: “Và? anh đã tìm được việc gì chưa? ” – “Không, không có gì… Anh đến Caritas và anh mang bánh mì về”. Điều mang lại phẩm giá không phải là mang bánh mì về nhà. Anh chị em có thể nhận nó từ Caritas – không, điều này không mang lại cho anh chị em phẩm giá. Điều mang lại cho anh chị em phẩm giá là kiếm được cơm bánh – và nếu chúng ta không đem lại cho người dân, đàn ông và đàn bà của chúng ta, khả năng kiếm được cơm bánh, thì đó là một sự bất công xã hội ở nơi đó, ở quốc gia đó, ở lục địa đó. Các nhà lãnh đạo phải đem lại cho mọi người khả năng kiếm được cơm bánh, vì khả năng kiếm ăn này mang lại cho họ phẩm giá. Đó là một việc xức dầu thánh cho phẩm giá, cho việc làm. Và điều này rất quan trọng.
Nhiều người trẻ, nhiều ông bố, bà mẹ trải qua thử thách khi không có một việc làm giúp họ sống thanh thản. Họ sống ngày qua ngày. Và việc tìm việc làm rất thường trở thành tuyệt vọng đến mức khiến họ mất hết hy vọng và khát vọng sống. Trong thời kỳ đại dịch này, nhiều người đã mất việc làm – chúng ta biết điều này – và một số, bị gánh nặng đè bẹp không thể chịu đựng nổi, đến mức phải tự kết liễu mạng sống mình. Tôi muốn tưởng nhớ từng người trong số họ và gia đình của họ ngày hôm nay. Chúng ta hãy dành một chút thời gian im lặng, tưởng nhớ những người đàn ông, những người đàn bà này, những người đang tuyệt vọng vì không thể tìm được việc làm.
Người ta chưa xem xét đủ sự kiện này là việc làm là một thành tố thiết yếu của đời sống con người, và thậm chí còn là con đường nên thánh nữa. Việc làm không chỉ là phương tiện kiếm sống mà thôi: nó còn là nơi chúng ta tự phát biểu, cảm thấy mình hữu dụng và học được bài học lớn về tính cụ thể, giúp giữ cho đời sống tinh thần không trở thành chủ nghĩa duy linh.
Tuy nhiên, thật không may, lao động thường là con tin cho cảnh bất công xã hội và thay vì là một phương tiện của con người, nó trở thành một ngoại vi hiện sinh. Tôi thường tự hỏi: Chúng ta làm công việc hàng ngày với tinh thần nào? Làm thế nào để chúng ta đối phó với sự mệt mỏi? Chúng ta có thấy hoạt động của mình chỉ liên quan đến vận mệnh của mình hay cũng liên quan đến vận mệnh của nhiều người khác nữa? Thực thế, việc làm là một cách phát biểu nhân cách của chúng ta, vốn tự bản chất có tính tương quan. Và, việc làm cũng là một cách để phát biểu óc sáng tạo của chúng ta: mỗi người chúng ta làm việc theo cách riêng của mình, với phong cách riêng của mình: cùng một việc làm nhưng với những phong cách khác nhau.
Thật tốt khi nghĩ tới sự kiện chính Chúa Giêsu đã làm việc và học nghề thủ công này từ Thánh Giuse. Hôm nay, chúng ta nên tự hỏi chúng ta có thể làm gì để phục hồi giá trị của việc làm; và chúng ta có thể đóng góp gì, như một Giáo hội, để việc làm có thể được cứu chuộc khỏi luận lý học lợi nhuận thuần túy và có thể được trải nghiệm như một quyền và nghĩa vụ căn bản của con người, một điều vốn phát biểu và làm tăng phẩm giá của họ.
Anh chị em thân mến, vì tất cả những điều trên, hôm nay tôi muốn cùng anh chị em đọc lại lời cầu nguyện mà Thánh Phaolô VI đã dâng lên Thánh Giuse vào ngày 1 tháng 5 năm 1969:
Lạy Thánh Cả Giuse,
Đấng bảo trợ Giáo Hội!
Đấng sát cánh với Ngôi Lời thành xác phàm,
Ngài từng làm việc mỗi ngày để kiếm cơm bánh, bằng cách
rút tỉa sức mạnh từ Người để sống và lao công;
Ngài từng trải nghiệm tâm tình lo lắng cho ngày mai,
tâm tình cay đắng của nghèo đói, sự bấp bênh của việc làm:
Ngài là người hôm nay nêu gương sáng,
khiêm tốn dưới mắt người đời
nhưng được tôn vinh hơn hết dưới mắt Thiên Chúa:
Xin ngài che chở người lao động trong cuộc sống khó nhọc hàng ngày của họ,
bảo vệ họ khỏi nản lòng,
khỏi nổi loạn tiêu cực,
và khỏi những cám dỗ yêu thích khoái lạc;
và xin gìn giữ hòa bình trên thế giới,
nền hòa bình một mình nó mới có thể bảo đảm sự phát triển của các dân tộc.
Amen.
Nguồn: http://vietcatholicnews.org/
_____________________________________________
Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến: Trong phần tiếp tục dạy giáo lý về Thánh Giuse, hôm nay chúng ta coi cuộc đời của Thánh Giuse như một người lao động. Các sách Phúc âm cho chúng ta biết rằng Giuse được thuê làm thợ mộc với những phương tiện khiêm tốn, tham gia vào những công việc đòi hỏi sức khỏe thể chất. Chính Chúa Giêsu hẳn đã học được nhiều điều về phẩm giá lao động từ Thánh Giuse. Trên thực tế, công việc là điều cần thiết cho sự phát triển con người của chúng ta và cho sự trưởng thành trong sự thánh thiện của chúng ta. Thật vậy, công việc không chỉ đơn giản là vấn đề lợi ích vật chất hay lợi nhuận đơn thuần, mà là một phương tiện mang lại ý nghĩa, giá trị và hình ảnh cho cuộc sống của chúng ta, và dạy chúng ta biết tiêu xài rộng rãi cho người khác. Ngày nay, chúng ta có thể nghĩ đến tất cả những người lao động trong thế giới của chúng ta, những người đang phải vật lộn để kiếm sống hoặc nuôi gia đình, và những người thường xuyên gặp phải bất công, bóc lột và nguy cơ thất nghiệp. Chúng ta hãy cầu nguyện, nhờ sự chuyển cầu của Thánh Giuse Thợ, cho việc bảo vệ các quyền cơ bản của tất cả người lao động, để nâng cao nhận thức về giá trị của sức lao động con người, và cho một trật tự kinh tế sẽ thúc đẩy phẩm giá và sự thịnh vượng của tất cả các dân tộc.
Bài 8. Thánh Giuse, người cha dịu dàng
Anh chị em thân mến,
chào anh chị em buổi sáng!
Hôm nay, tôi muốn tìm hiểu hình ảnh của Thánh Giuse như một người cha dịu dàng.
Trong Tông thư Patris corde, (ngày 8 tháng 12 năm 2020), tôi đã có cơ hội suy gẫm về khía cạnh dịu dàng này, một khía cạnh trong nhân cách của Thánh Giuse. Trên thực tế, mặc dù các sách Tin Mừng không cho chúng ta biết bất cứ chi tiết nào về cách ngài thực thi tư cách làm cha của mình, nhưng chúng ta biết chắc rằng việc ngài là một người “công chính” cũng đã được chuyển dịch thành nền giáo dục ngài dành cho Chúa Giêsu. “Thánh Giuse đã thấy Chúa Giêsu lớn lên từng ngày ‘về khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta’” (Lc 2:52): Tin Mừng cho biết như vậy. Chúa đã làm với Israel thế nào, Thánh Giuse cũng đã làm như thế với Chúa Giêsu: “Ngài dạy Người bước đi, cầm tay Người; ngài đối với Người như một người cha nâng đứa trẻ lên má, cúi xuống và cho nó ăn (xem Hs 11: 3-4) ” (Patris corde, 2). Định nghĩa này trong Kinh thánh thật tươi đẹp, cho thấy mối liên hệ của Thiên Chúa với dân Israel. Chúng ta nghĩ đó cũng là mối liên hệ giữa Thánh Giuse và Chúa Giêsu.
Các sách Tin Mừng chứng thực rằng Chúa Giêsu luôn dùng danh xưng “cha” để nói về Thiên Chúa và tình yêu của Người. Nhiều câu chuyện dụ ngôn lấy nhân vật chính của chúng là hình bóng của một người cha nhân từ. Một trong những dụ ngôn nổi tiếng nhất chắc chắn là dụ ngôn Người Cha nhân từ, được Thánh sử Luca kể lại (x. Lc 15:11-32). Dụ ngôn này không những nhấn mạnh kinh nghiệm tội lỗi và tha thứ, mà còn nhấn mạnh đến cách thức trong đó sự tha thứ đến với người đã làm điều sai trái. Bản văn viết: “Trong khi anh ta còn ở đàng xa, cha anh ta đã nhìn thấy anh ta và tràn ngập lòng thương cảm. Người chạy đến bên con, ôm lấy con và hôn con” (c. 20). Người con trai mong đợi một sự trừng phạt, một công lý mà nhẹ nhất có thể sẽ cho anh ta vị trí của một trong những người đầy tớ, nhưng anh ta thấy mình được bao bọc trong vòng tay của cha mình. Sự dịu dàng là một điều lớn hơn luận lý học của thế giới. Đó là một cách bất ngờ thực thi công lý. Đó là lý do tại sao chúng ta không bao giờ được quên rằng Thiên Chúa không sợ hãi vì tội lỗi của chúng ta: chúng ta hãy ghi khắc điều này một cách rõ ràng trong tâm trí của chúng ta. Thiên Chúa không sợ hãi trước tội lỗi của chúng ta, Người lớn hơn tội lỗi của chúng ta: Người là cha, Người là tình yêu, Người dịu dàng. Người không sợ hãi vì tội lỗi của chúng ta, lỗi lầm của chúng ta, sự trượt ngã của chúng ta, nhưng Người sợ hãi vì sự khép kín trái tim của chúng ta – điều này, vâng, điều này khiến Người đau khổ – Người sợ hãi vì chúng ta thiếu niềm tin vào tình yêu của Người. Có một sự dịu dàng tuyệt vời trong kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa. Và thật tuyệt vời khi nghĩ rằng người đầu tiên truyền thực tại này cho Chúa Giêsu chính là Thánh Giuse. Vì những điều thuộc Thiên Chúa luôn đến với chúng ta qua trung gian của kinh nghiệm con người. Cách đây đã lâu – tôi không biết mình đã kể câu chuyện này hay chưa – một nhóm thanh niên đã đóng một vở bi kịch, một nhóm nhạc kịch bình dân, biết nhìn xa, bị xúc động bởi câu chuyện dụ ngôn về người cha nhân từ này nên quyết định sáng tạo một sản phẩm sân khấu nhạc pop về vấn đề này, với câu chuyện này. Và họ đã rất thành công trong xuất phẩm này. Và câu chuyện của họ là, một người bạn nghe biết người con trai bị cha ghẻ lạnh, muốn trở về nhà nhưng sợ cha đuổi ra ngoài và trừng phạt. Do đó, người bạn nói, “Hãy gửi một tin nhắn nói rằng bạn muốn trở về nhà, và nếu cha bạn sẵn sàng đón bạn, thì cụ hãy đặt một chiếc khăn tay ở cửa sổ, chiếc khăn mà bạn có thể nhìn thấy ngay khi bạn thực hiện phần cuối cùng của con đường trở về nhà”. Và điều này đã được thực hiện. Và xuất phẩm, với ca hát và nhảy múa, tiếp tục cho đến khi người con trai rẽ vào đoạn đường cuối cùng và nhìn thấy ngôi nhà. Và khi anh ta nhìn lên, anh ta thấy ngôi nhà đầy những chiếc khăn tay màu trắng: đầy những chiếc khăn như thế. Không phải một, mà là ba hoặc bốn chiếc khăn tay ở mỗi cửa sổ. Đó là lòng thương xót của Thiên Chúa. Người không bị nhụt chí bởi quá khứ của chúng ta, bởi những điều tồi tệ mà chúng ta đã làm; giải quyết sổ sách với Chúa là một điều tuyệt vời, bởi vì chúng ta bắt đầu trò chuyện, và Người ôm lấy chúng ta. Quả là dịu dàng!
Vì vậy, chúng ta có thể tự hỏi liệu bản thân chúng ta có trải nghiệm sự dịu dàng này chưa, và liệu chúng ta có trở thành nhân chứng cho nó hay không. Vì sự dịu dàng chủ yếu không phải là một vấn đề xúc cảm hay tình cảm: nó là kinh nghiệm cảm thấy được yêu thương và chào đón chính trong hoàn cảnh nghèo khó và khốn khó của chúng ta, và do đó được tình yêu của Thiên Chúa biến đổi.
Thiên Chúa không những dựa vào tài năng của chúng ta, mà còn dựa vào sự yếu đuối đã được cứu chuộc của chúng ta. Điều này, chẳng hạn, đã khiến Thánh Phaolô nói rằng cũng có một kế hoạch cho sự mỏng dòn của người ta. Thực thế, ngài viết cho cộng đồng Côrintô: “Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi… Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: ‘Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12: 7-9). Chúa không lấy đi tất cả những yếu đuối của chúng ta, nhưng giúp chúng ta tiếp tục bước đi với những yếu đuối của mình, nắm lấy tay chúng ta. Người nắm lấy điểm yếu của chúng ta trong tay và đặt mình ở bên cạnh chúng ta. Và đó là sự dịu dàng.
Trải nghiệm dịu dàng bao gồm việc nhìn thấy quyền năng của Thiên Chúa truyền qua chính điều khiến chúng ta trở nên mong manh nhất; tuy nhiên, với điều kiện chúng ta rời bỏ cái nhìn của Kẻ Ác, kẻ “khiến chúng ta nhìn thấy và lên án sự yếu đuối của chúng ta”, trong khi Chúa Thánh Thần “đưa nó ra ánh sáng bằng tình yêu dịu dàng” (Patris corde, 2). “Sự dịu dàng là cách tốt nhất để chạm vào sự yếu đuối bên trong chúng ta. […] Anh chị em hãy nhìn cách các y tá chạm vào vết thương của người bệnh: một cách dịu dàng, để không làm tổn thương thêm. Và đây là cách Chúa chạm vào vết thương của chúng ta, với cùng một sự dịu dàng. Đó là lý do tại sao việc gặp gỡ lòng thương xót của Thiên Chúa, nhất là trong Bí tích Hòa giải, trong lời cầu nguyện bản thân với Thiên Chúa là rất quan trọng, nơi chúng ta cảm nghiệm được sự thật và sự dịu dàng của Người. Nghịch lý thay, kẻ ác cũng có thể nói sự thật với chúng ta: hắn là kẻ nói dối, nhưng hắn có thể sắp xếp mọi việc để hắn nói với chúng ta sự thật nhằm lừa dối chúng ta, nhưng hắn làm vậy chỉ để lên án chúng ta. Thay vào đó, Chúa cho chúng ta biết sự thật và đưa tay ra để cứu chúng ta. Chúng ta biết rằng sự thật của Thiên Chúa không lên án, nhưng thay vào đó chào đón, ôm ấp, nâng đỡ và tha thứ cho chúng ta” (Patris corde, 2). Chúa luôn tha thứ: anh chị em hãy ghi nhớ điều này rõ ràng trong đầu óc và trái tim anh chị em. Thiên Chúa luôn tha thứ. Chúng ta là những người mệt mỏi khi cầu xin sự tha thứ. Nhưng Người luôn tha thứ, ngay cả những điều tồi tệ nhất.
Như thế, điều tốt cho chúng ta là soi mình chúng ta trong tình phụ tử của Thánh Giuse, một tấm gương phản chiếu tình phụ tử của Thiên Chúa, và tự hỏi liệu chúng ta có cho phép Chúa yêu thương chúng ta bằng sự dịu dàng của Người, biến đổi mỗi người chúng ta thành những người nam và người nữ có khả năng yêu thương theo cách này hay không. Nếu không có “cuộc cách mạng dịu dàng” này – cần phải có một cuộc cách mạng dịu dàng! – chúng ta có nguy cơ bị giam cầm mãi trong một công lý không cho phép chúng ta dễ dàng vươn lên và nó nhầm lẫn ơn cứu chuộc với sự trừng phạt. Vì lý do này, hôm nay tôi muốn đặc biệt tưởng nhớ đến các anh chị em của chúng ta, những người đang ở trong tù. Đúng là những người đã làm sai phải trả giá cho lỗi lầm của họ, nhưng điều cũng đúng là những người đã làm sai phải được chuộc lại lỗi lầm của mình. Không thể có các bản án mà lại không có các cửa sổ hy vọng. Bất cứ bản án nào cũng phải có cửa sổ hy vọng. Chúng ta hãy nghĩ đến anh chị em của chúng ta ở trong tù, nghĩ đến sự dịu dàng của Thiên Chúa dành cho họ, và chúng ta hãy cầu nguyện cho họ, để họ có thể tìm thấy trong cửa sổ hy vọng đó một lối thoát để hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Và chúng ta kết thúc bằng lời cầu nguyện sau đây:
Lạy Thánh Giuse, người cha dịu dàng,
xin dạy chúng con biết chấp nhận rằng chúng con được yêu thương chính ở điểm chúng con yếu nhất.
Xin cho chúng con đừng đặt trở ngại nào giữa sự nghèo khó của chúng con và sự cao cả của tình yêu Thiên Chúa.
Xin khơi dậy nơi chúng con niềm khao khát tiếp cận Bí tích Hoà giải,
để chúng con được tha thứ và cũng có khả năng yêu thương dịu dàng anh chị em của chúng con trong hoàn cảnh nghèo khó của họ.
Xin gần gũi với những người đã làm sai và đang phải trả giá cho điều đó;
Xin giúp họ tìm thấy không những công lý mà cả sự dịu dàng để họ có thể bắt đầu lại.
Và xin dạy họ rằng cách đầu tiên để bắt đầu lại
là chân thành cầu xin sự tha thứ, cảm nhận được sự âu yếm của Chúa Cha.
Amen.
Người dịch: Vũ Văn An
Nguồn: http://vietcatholicnews.org/
_____________________________________________
Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến: Trong bài giáo lý tiếp tục của chúng ta về hình ảnh của Thánh Giuse, giờ đây chúng ta xem xét gương mẫu của Thánh Giuse về tình phụ tử và tầm quan trọng của nó trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Đặc biệt, trong các sách Phúc âm, Chúa Giêsu luôn lôi cuốn hình ảnh người cha trần thế khi nói về Cha trên trời và tình yêu của Ngài. Chúng ta đặc biệt thấy điều này trong dụ ngôn người con hoang đàng (x. Lc 15,11-32), không chỉ nói về tội lỗi và sự tha thứ, mà còn nói về tình yêu thương hàn gắn và cứu chuộc những mối quan hệ đã tan vỡ. Giống như đứa con hoang đàng, chúng ta cũng được mời gọi nhìn nhận tội lỗi và lỗi lầm của mình, nhưng cũng để thay đổi bản thân bởi vòng tay yêu thương của Chúa. Tình yêu thương dịu dàng của Thiên Chúa cũng được thể hiện qua sự tin cậy mà Ngài đặt vào chúng ta để thực hiện ý muốn của Ngài bằng quyền năng của ân điển Ngài, điều này hoạt động ngay cả qua những yếu đuối của con người chúng ta. Là Cha nhân từ, Thiên Chúa giúp chúng ta nhìn ra sự thật về chính mình, để làm cho chúng ta trưởng thành về thiêng liêng trong Đấng Kitô. Đó là lý do tại sao việc gặp gỡ tình yêu thương xót của Người trong các bí tích, đặc biệt là bí tích Hòa giải là rất quan trọng. Qua lời cầu bầu của Thánh Giuse, xin cho chúng ta học cách bước theo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng nhân cho sức mạnh biến đổi của tình yêu thương thiêng liêng của ngài.
Bài 9. Thánh Giuse, người có những giấc mơ
Anh chị em thân mến,
chào anh chị em buổi sáng!
Hôm nay tôi muốn tập trung vào hình ảnh Thánh Giuse như một người có những giấc mơ. Trong Kinh thánh, cũng như trong nền văn hóa của các dân tộc cổ xưa, giấc mơ được coi như một phương tiện để Thiên Chúa tự mạc khải Người ra. Giấc mơ tượng trưng cho đời sống tinh thần của mỗi chúng ta, tượng trưng cho không gian nội tâm mà mỗi chúng ta được mời gọi vun sới và canh giữ, nơi Thiên Chúa tự tỏ mình ra và thường nói với chúng ta. Nhưng chúng ta cũng phải nói rằng bên trong mỗi chúng ta không những có tiếng nói của Thiên Chúa: mà còn nhiều tiếng nói khác nữa. Thí dụ, tiếng nói sợ hãi của chúng ta, tiếng nói của những kinh nghiệm quá khứ, tiếng nói của hy vọng; và cũng có tiếng nói của kẻ ác muốn lừa dối và làm cho chúng ta hoang mang. Do đó, điều quan trọng là nhận ra tiếng nói Thiên Chúa ở giữa những tiếng nói khác. Thánh Giuse chứng tỏ rằng ngài biết cách trau dồi sự im lặng cần thiết và, trên hết, biết cách đưa ra quyết định đúng đắn trước Lời Chúa phán với ngài trong nội tâm. Hôm nay, điều hữu ích cho chúng ta là xem xét bốn giấc mơ trong Tin Mừng có ngài là nhân vật chính, để hiểu cách đặt mình trước sự mạc khải của Thiên Chúa. Tin Mừng kể cho chúng ta bốn giấc mơ của thánh Giuse.
Trong giấc mơ thứ nhất (x. Mt 1:18-25), thiên thần giúp thánh Giuse giải quyết màn kịch đang làm ngài âu lo khi biết tin Đức Maria mang thai: “Đừng sợ lấy Maria làm vợ, vì đấng thụ thai ở trong bà là do Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh một con trai, và ông sẽ gọi tên con trẻ là Giêsu, vì Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (câu 20-21). Và câu trả lời của ngài đến ngay lập tức: “Khi Giuse thức giấc, ông đã làm theo lời sứ thần của Chúa đã truyền cho ông” (câu 24). Cuộc sống thường đặt chúng ta vào những tình huống mà chúng ta không hiểu và dường như không có giải pháp. Cầu nguyện trong những khoảnh khắc này – điều này có nghĩa là để Chúa chỉ cho chúng ta điều đúng đắn phải làm. Thực thế, lời cầu nguyện rất thường đem lại cho chúng ta trực giác để vượt thoát nguy nan. Anh chị em thân mến, Chúa không bao giờ cho phép một vấn đề nảy sinh mà không ban cho chúng ta sự giúp đỡ cần thiết để giải quyết nó. Người không ném chúng ta một mình vào lửa. Ngài không bỏ chúng ta giữa các thú dữ. Không. Khi Chúa chỉ cho chúng ta thấy một vấn đề, hoặc tiết lộ một vấn đề, Người luôn ban cho chúng ta trực giác, sự giúp đỡ, sự hiện diện của Người, để thoát ra khỏi nó, để giải quyết nó.
Và giấc mơ mạc khải thứ hai của Thánh Giuse xẩy ra khi tính mạng của Hài nhi Giêsu gặp nguy hiểm. Thông điệp rất rõ ràng: “Hãy trỗi dậy, mang con trẻ và mẹ em trốn sang Ai Cập, và ở đó cho đến khi tôi nói với ông; vì Hêrôđê đang tìm con trẻ để tiêu diệt em” (Mt 2:13). Tin mừng cho biết, Thánh Giuse vâng lời không chút do dự: “Ngài chỗi dậy, dắt con trẻ và mẹ em vào ban đêm, và khởi hành đi Ai Cập, và ở đó cho đến khi Hêrôđê qua đời” (câu 14-15). Trong cuộc sống, chúng ta ai cũng trải qua những nguy hiểm đe dọa sự hiện hữu của mình hay sự hiện hữu của những người mình yêu thương. Trong những tình huống này, cầu nguyện có nghĩa là lắng nghe tiếng nói có thể mang lại cho chúng ta lòng can đảm như Thánh Giuse, đối đầu với các khó khăn mà không khuất phục.
Tại Ai Cập, Thánh Giuse chờ đợi một dấu hiệu từ Thiên Chúa cho ngài hay ngài có thể trở về quê hương, và đây là nội dung của giấc mơ thứ ba. Sứ thần tiết lộ cho ngài biết những kẻ muốn giết Hài Nhi đã chết và ra lệnh cho ngài phải lên đường cùng với Đức Maria và Chúa Giêsu trở về quê hương (x. Mt 2:19-20). Tin Mừng cho biết, Thánh Giuse “trỗi dậy, đem con trẻ và mẹ em và lên đường trở về Israel” (c. 21). Nhưng trong cuộc hành trình trở về, “khi nghe tin Ác-khê-lao trị vì xứ Giuđê thay cho cha mình là Hêrôđê, ngài sợ không dám đến đó” (câu 22). Đây là điều mặc khải thứ tư: “Được báo trước trong một giấc mơ, ông lui về Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét”(câu 22-23). Sợ hãi cũng là một phần của cuộc sống và nó cũng cần chúng ta cầu nguyện. Thiên Chúa không hứa với chúng ta rằng chúng ta sẽ không bao giờ sợ hãi, nhưng rằng, với sự giúp đỡ của Người, đó sẽ không phải là tiêu chuẩn cho các quyết định của chúng ta. Thánh Giuse trải qua nỗi sợ hãi, nhưng Thiên Chúa cũng hướng dẫn ngài vượt qua điều đó. Sức mạnh của lời cầu nguyện mang lại ánh sáng cho những hoàn cảnh tối tăm.
Vào lúc này, tôi nghĩ tới rất nhiều người đang bị đè bẹp bởi gánh nặng của cuộc sống và không còn có thể hy vọng hay cầu nguyện. Xin Thánh Giuse giúp họ mở lòng ra đối thoại với Thiên Chúa để tìm thấy ánh sáng, sức mạnh và bình an.
Và tôi cũng nghĩ đến các bậc cha mẹ trước các vấn đề của con cái họ: những đứa con mắc nhiều chứng bệnh, những đứa con ốm đau, thậm chí mang các chứng bệnh vĩnh viễn. – Biết bao đau đớn trong đó! – những bậc cha mẹ thấy những khuynh hướng tình dục khác nhau ở con cái của họ; phải giải quyết việc này như thế nào và đồng hành ra sao cùng con cái chứ không ẩn mình trong thái độ lên án. Các bậc cha mẹ nhìn thấy con cái của họ ra đi vì một căn bệnh, và thậm chí còn buồn hơn, chúng ta đọc nó hàng ngày trên báo – những đứa trẻ nghịch ngợm và kết cục là một tai nạn xe hơi. Cha mẹ thấy con mình không tiến bộ ở trường và không biết phải làm thế nào… Rất nhiều vấn đề của cha mẹ. Chúng ta hãy nghĩ về nó: làm thế nào để giúp đỡ họ. Và với những bậc cha mẹ này, tôi xin nói: đừng sợ. Vâng, có đau đớn. Đau đớn rất nhiều. Nhưng anh chị em hãy nghĩ đến Chúa, anh chị em hãy nghĩ đến cách Thánh Giuse giải quyết các vấn đề và xin Thánh Giuse giúp anh chị em. Đừng bao giờ lên án một con trẻ.
Nó khiến tôi đầy lòng cảm thương – điều đó đã xảy ra ở Buenos Aires – khi tôi lên xe buýt và xe búyt chạy qua nhà tù. Có một đoàn người xếp hàng dài để vào thăm các tù nhân. Và có những bà mẹ ở đó. Và tôi rất xúc động bởi bà mẹ này, người đối đầu với vấn đề của đứa con trai mắc sai lầm và đang ở trong tù, đã không để con một mình, đã chường mặt ra và đồng hành cùng con. Dũng khí này; lòng dũng cảm của người cha, người mẹ luôn luôn, luôn luôn đồng hành cùng con cái. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban sự can đảm này cho tất cả những người cha và người mẹ, như Người đã ban cho thánh Giuse. Và cầu nguyện, chứ nhỉ? Anh chị em hãy cầu nguyện xin Chúa giúp chúng ta trong những giây phút này.
Tuy nhiên, cầu nguyện không bao giờ là một cử chỉ trừu tượng hoặc thuần túy bên trong, giống như những phong trào duy linh kia, các phong trào mang tính ngộ đạo hơn là Kitô giáo. Không, không phải thế đâu. Cầu nguyện luôn gắn bó chặt chẽ với lòng bác ái. Chỉ khi chúng ta kết hợp việc cầu nguyện với tình yêu thương, tình yêu đối với trẻ em trong những trường hợp tôi vừa đề cập, hoặc tình yêu đối với người lân cận, thì chúng ta mới có thể hiểu được các sứ điệp của Chúa. Thánh Giuse đã cầu nguyện, làm việc và yêu thương – ba điều tuyệt vời đối với cha mẹ: cầu nguyện, làm việc và yêu thương – và vì điều này mà ngài luôn nhận được những gì ngài cần để đương đầu với những thử thách trong cuộc sống. Chúng ta hãy phó mình cho ngài và sự chuyển cầu của ngài.
Lạy Thánh Giuse, ngài là người có những giấc mơ,
Xin dạy chúng con phục hồi đời sống thiêng liêng
như nơi nội thẳm, nơi Thiên Chúa biểu lộ chính Người và cứu vớt chúng con.
Xin loại bỏ khỏi chúng con ý nghĩ cho rằng cầu nguyện là vô ích;
Xin giúp mỗi người chúng con sống tương ứng với những gì Chúa bày tỏ cho chúng con.
Xin cho lý trí của chúng con được soi sáng bởi ánh sáng của Chúa Thánh thần,
cho lòng chúng con được khích lệ bởi sức mạnh của Người
và nỗi sợ hãi của chúng con được cứu vớt bởi lòng thương xót của Người. Amen.
Nguồn: http://vietcatholicnews.org/
_____________________________________________
Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến: Tiếp tục bài giáo lý tiếp tục của chúng ta về Thánh Giuse, bây giờ chúng ta xem xét bốn giấc mơ mà Thiên Chúa đã nói với thánh Giuse và bày tỏ ý muốn của ngài cho ngài. Lời đáp trả sẵn sàng của Giuse đối với Chúa có thể là kiểu mẫu cho nỗ lực của chúng ta để nghe tiếng Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Trong giấc mơ đầu tiên, Giuse được giúp đỡ để vượt qua nỗi đau khổ khi biết rằng Maria đang có con, và anh ta đáp ứng ngay lập tức bằng cách lấy Maria làm vợ. Trong giấc mơ thứ hai, người ta cho biết Giuse đã cùng Thánh Gia chạy trốn đến Ai Cập để thoát khỏi cơn thịnh nộ của Vua Hêrôđê. Khi ở Ai Cập, Giuse biết được trong giấc mơ thứ ba rằng họ có thể trở về quê hương một cách an toàn. Trong cuộc hành trình, anh ta được cho biết trong một giấc mơ thứ tư để định cư ở Nazareth. Ví dụ của Giuse về sự cởi mở nội tâm với tiếng nói của Chúa có thể giúp chúng ta tìm thấy sự khôn ngoan trong việc ứng phó với những bất trắc trong cuộc sống của mình, can đảm đối mặt với những tình huống đe dọa và tự tin khi giao phó cả nỗi sợ hãi của mình cho sự chăm sóc quan phòng của Đức Chúa Trời. Cầu xin lời chuyển cầu của Thánh Giuse giúp đỡ tất cả những ai cảm thấy khó cầu nguyện, và khuyến khích chúng ta trau dồi đời sống nội tâm để kéo chúng ta đến gần Chúa hơn, giúp chúng ta ngày càng ngoan ngoãn hơn với ý muốn của Người và ngày càng cởi mở hơn với nhu cầu của anh chị em chúng ta.
Bài 10. Thánh Giuse và Hiệp thông Các Thánh
Anh chị em thân mến,
chào anh chị em buổi sáng!
Trong những tuần gần đây, chúng ta đã có thể thâm hậu hóa cái hiểu của chúng ta về nhân vật Thánh Giuse, được hướng dẫn bởi một số thông tin ít ỏi nhưng quan trọng được cung cấp trong các sách Tin Mừng, và cũng bởi các khía cạnh trong nhân cách của ngài mà Giáo hội qua nhiều thế kỷ đã có thể làm nổi bật qua lời cầu nguyện và lòng sùng kính. Bắt đầu từ sentire commune (“cảm thức chung”) của Giáo hội vốn đi kèm với nhân vật Thánh Giuse này, hôm nay tôi muốn tập chú vào một tín điều quan trọng của đức tin có thể làm phong phú đời sống Kitô hữu của chúng ta và cũng định hình mối liên hệ của chúng ta với các thánh, và với những người thân yêu đã khuất của chúng ta theo cách tốt nhất có thể: Tôi muốn nói đến mầu nhiệm hiệp thông các thánh. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta thường đọc “Tôi tin sự hiệp thông của các thánh”. Nhưng nếu anh chị em hỏi sự hiệp thông của các thánh là gì, thì tôi nhớ khi còn nhỏ tôi thường trả lời ngay lập tức: “À, các thánh rước lễ”. Đó là một điều mà… chúng ta không hiểu những gì chúng tôi đọc. Sự hiệp thông của các thánh là gì? Không phải các thánh rước lễ, không phải vậy. Đó là một điều gì đó khác hẳn.
Đôi khi, ngay cả Kitô giáo cũng có thể rơi vào những hình thức sùng kính mà dường như phản ánh một não trạng ngoại giáo hơn là Kitô giáo. Sự khác biệt căn bản là lời cầu nguyện và lòng sùng kính của chúng ta đối với những người trung thành, trong những trường hợp này không dựa trên sự tin tưởng vào một hữu thể nhân bản, vào một hình ảnh hoặc một đồ vật, ngay cả khi chúng ta biết chúng linh thiêng. Tiên tri Giêrêmia nhắc nhở chúng ta: “Đáng nguyền rủa là những kẻ tin cậy nơi loài người, […] phúc thay những ai tin cậy nơi Chúa” (17: 5,7). Ngay cả khi chúng ta hoàn toàn tin cậy vào lời chuyển cầu của một vị thánh, hay thậm chí là lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, thì sự tin cậy của chúng ta chỉ có giá trị trong mối liên hệ với Chúa Kitô. Như thể con đường hướng về vị thánh này hay về phía Đức Mẹ không kết thúc ở đó, không. Không phải ở đó, nhưng trong mối liên hệ với Chúa Kitô. Người là mối dây liên kết, Chúa Kitô là mối dây liên kết chúng ta với Người và với nhau, và có một tên gọi chuyên biệt: mối dây liên kết tất cả chúng ta, giữa chính chúng ta và giữa chúng ta với Chúa Kitô này, đó là “sự hiệp thông của các thánh”. Không phải các thánh làm phép lạ đâu! Vị thánh này thật là lạ lùng… Không, anh chị em nên dừng lại ở đó. Các thánh không tạo ra phép lạ, mà chỉ có ân sủng của Thiên Chúa tác động qua các ngài. Phép lạ được thực hiện bởi Thiên Chúa, bởi ơn thánh của Thiên Chúa hành động qua một người thánh thiện, một người công chính. Điều này phải được làm cho rõ ràng. Có những người nói, “Tôi không tin Thiên Chúa, tôi không biết, nhưng tôi tin vào vị thánh này”. Không, điều này sai. Thánh nhân là một người chuyển cầu, một người cầu nguyện cho chúng ta và chúng ta cầu nguyện với ngài, và ngài cầu nguyện cho chúng ta và Chúa ban cho chúng ta ân sủng: Chúa, nhờ vị thánh.
Vậy thì “sự hiệp thông của các thánh” là gì? Sách Giáo lý của Hội thánh Công Giáo khẳng định: “Hiệp thông các thánh là Hội thánh” (số 946). Anh chị em hãy xem đây là một định nghĩa đẹp đẽ xiết bao! “Hiệp thông các thánh là Giáo hội”. Điều đó có nghĩa gì? Phải chăng có nghĩa là Giáo hội được dành cho những người hoàn thiện? Không. Nó có nghĩa là cộng đồng của những tội nhân được cứu rỗi [Nó là : peccatori salvati, các tội nhân được cứu rỗi]. Giáo hội là cộng đồng của những người tội lỗi được cứu rỗi. Định nghĩa này quả đẹp đẽ. Không ai có thể loại mình ra khỏi Giáo hội, tất cả chúng ta đều là những kẻ có tội được cứu rỗi. Sự thánh thiện của chúng ta là hoa trái của tình yêu thương của Thiên Chúa thể hiện trong Chúa Kitô, Đấng thánh hoá chúng ta bằng cách yêu thương chúng ta trong cảnh khốn cùng của chúng ta và cứu chúng ta khỏi điều đó.
Thánh Phaolô nói rằng luôn nhờ ơn Người, chúng ta tạo thành một thân thể duy nhất, trong đó Chúa Giêsu là đầu và chúng ta là chi thể (x. 1Cr 12:12). Hình ảnh Nhiệm thể Chúa Kitô và hình ảnh thân thể này ngay lập tức làm chúng ta hiểu ý nghĩa của việc ràng buộc với nhau trong sự hiệp thông: Chúng ta hãy lắng nghe điều Thánh Phaolô nói: “Nếu một chi thể đau khổ”, Thánh Phaolô viết, “tất cả các chi thể cùng đau khổ; và nếu một chi thể được vinh danh, tất cả các chi thể sẽ vui mừng với họ. Giờ đây, anh em là thân thể của Đức Kitô và, mỗi người tùy theo phần của mình mà là chi thể của Người ”(1Cr 12:26-27). Đây là điều Thánh Phaolô nói: tất cả chúng ta là một thân thể, tất cả được hiệp nhất nhờ đức tin, nhờ phép rửa… Tất cả trong sự hiệp thông: hiệp nhất trong hiệp thông với Chúa Giêsu Kitô. Và đấy là sự hiệp thông của các thánh.
Anh chị em thân mến, niềm vui và nỗi buồn chạm vào cuộc sống của tôi ảnh hưởng đến tất cả mọi người, cũng như niềm vui và nỗi buồn chạm vào cuộc sống của anh chị em bên cạnh chúng ta cũng ảnh hưởng đến tôi. Tôi không thể thờ ơ với người khác, bởi vì tất cả chúng ta đều ở trong một thân thể, trong sự hiệp thông. Theo nghĩa này, ngay cả tội lỗi của một cá nhân cũng luôn ảnh hưởng đến mọi người, và tình yêu của mỗi cá nhân ảnh hưởng đến tất cả mọi người. Nhờ sự hiệp thông của các thánh, sự kết hợp này, mọi chi thể của Giáo hội đều gắn bó với tôi một cách sâu xa. Nhưng tôi không nói “với tôi” bởi vì tôi là Giáo hoàng; [Tôi nói] với mỗi người chúng ta, ngài được ràng buộc, chúng ta được ràng buộc, và được ràng buộc một cách sâu sắc và mối ràng buộc này mạnh mẽ đến mức không thể bị phá vỡ ngay cả bởi sự chết. Ngay cả bởi sự chết. Thật vậy, sự hiệp thông của các thánh không chỉ liên quan đến những anh chị em đang ở bên cạnh tôi trong thời điểm có tính lịch sử này, hoặc những người sống trong thời điểm lịch sử này, nhưng cũng liên quan tới những người đã kết thúc cuộc hành trình của mình, cuộc hành hương dương thế và vượt qua ngưỡng cửa của cái chết. Họ cũng đang hiệp thông với chúng ta. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy xem xét điều này, trong Chúa Kitô, không ai có thể thực sự tách chúng ta ra khỏi những người chúng ta yêu thương bởi vì mối dây liên kết là mối dây hiện sinh, mối dây bền chặt trong chính bản chất của chúng ta; chỉ có cách sống với nhau mới thay đổi, nhưng không gì và không ai có thể phá vỡ mối ràng buộc này. “Thưa Cha, chúng ta hãy nghĩ về những người đã chối bỏ đức tin, những người bội giáo, những kẻ bách hại Giáo hội, những người đã bác bỏ phép rửa của họ: Những người này cũng ở trong nhà sao?” Vâng, cả những người này nữa. Mọi người trong số họ. Những người phạm thượng, tất cả những người này. Chúng ta là anh em. Đó là sự hiệp thông của các thánh. Sự hiệp thông của các thánh liên kết cộng đồng các tín hữu dưới đất và trên trời, và dưới đất, tất cả các thánh, những người tội lỗi, tất cả.
Theo nghĩa này, liên hệ bằng hữu mà tôi có thể xây dựng với anh chị em bên cạnh tôi, tôi cũng có thể thiết lập với anh chị em trên trời. Các thánh là những người bạn mà với các ngài, chúng ta thường thiết lập liên hệ bằng hữu. Điều chúng ta gọi là lòng sùng kính một vị thánh – “Tôi rất sùng kính vị thánh này hay vị thánh nọ” – điều mà chúng ta gọi là lòng sùng kính thực ra là một cách phát biểu tình yêu thương từ chính mối dây kết hợp chúng ta này. Ngoài ra, trong cuộc sống hàng ngày, người ta có thể nói: “Nhưng người này có lòng sùng kính cha mẹ già biết bao”: không, đó là một cách yêu thương, một cách biểu lộ tình yêu thương. Và chúng ta đều biết rằng chúng ta luôn có thể hướng về một người bạn, đặc biệt là khi chúng ta gặp khó khăn và cần sự giúp đỡ. Và chúng ta có những người bạn trên thiên đàng. Tất cả chúng ta đều cần bạn bè; tất cả chúng ta đều cần những mối liên hệ có ý nghĩa để giúp chúng ta vượt qua cuộc sống. Chúa Giêsu cũng có những người bạn của Người, và Người hướng về họ vào những thời điểm quyết định nhất của kinh nghiệm làm người của Người. Trong lịch sử Giáo hội, có một số hằng số đồng hành với cộng đoàn tín hữu: trước hết là tình cảm cao cả và mối dây liên kết rất bền chặt mà Giáo hội luôn cảm thấy đối với Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta. Nhưng cũng là niềm vinh dự và tình cảm đặc biệt mà Đức Mẹ đã dành cho Thánh Giuse. Dù sao, Thiên Chúa đã giao phó cho ngài điều quý giá nhất của Người: Con của Người là Chúa Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria. Luôn luôn nhờ sự hiệp thông của các thánh mà chúng ta cảm thấy các thánh nam và nữ gần gũi với chúng ta luôn; các ngài vốn là những người bảo trợ chúng ta – chẳng hạn vì tên chúng ta mang, vì Giáo hội mà chúng ta thuộc về, vì nơi chốn chúng ta sống, và v.v…, cũng như vì lòng sùng kính cá nhân -. Và đó là sự tin tưởng luôn phải thúc đẩy chúng ta hướng về các ngài trong những thời điểm quyết định của cuộc đời. Đó không phải là một loại ma thuật, không phải là mê tín dị đoan, đó là sự sùng kính đối với các vị thánh. Chỉ đơn giản là nói chuyện với một người anh em, một người chị em, người đang hiện diện trước mặt Thiên Chúa, người đã sống một cuộc sống công chính, một cuộc sống kiểu mẫu và hiện đang ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Và tôi nói chuyện với anh này, chị này, và xin họ chuyển cầu cho các nhu cầu của tôi.
Chính vì lý do này, tôi muốn kết thúc bài giáo lý này bằng một lời cầu nguyện với Thánh Giuse mà tôi đặc biệt gắn bó và tôi đã đọc kinh này mỗi ngày trong hơn 40 năm qua. Đó là lời cầu nguyện mà tôi tìm thấy trong một cuốn sách cầu nguyện của các Nữ tu Chúa Giêsu và Mẹ Maria, từ những năm 1700, cuối thế kỷ thứ mười tám. Nó rất đẹp, nhưng hơn cả một lời cầu nguyện, nó còn là một thách thức, đối với người bạn này, đối với người cha này, đối với người giám hộ chúng ta, Thánh Giuse. Sẽ thật là tuyệt vời nếu anh chị có thể học và lặp lại lời cầu nguyện này. Tôi sẽ đọc nó.
“Lạy Thánh Tổ phụ Giuse Vinh hiển, đấng có quyền năng biến điều không thể thành có thể, xin đến giúp đỡ con trong những lúc lo âu và khó khăn này. Xin hãy đặt dưới sự bảo vệ của ngài các tình huống nghiêm trọng và khó khăn mà con trao phó cho ngài, để chúng có thể có một kết quả tốt đẹp. Lạy cha yêu dấu của con, trọn lòng tin tưởng của con đều ở nơi cha. Trọn lòng tin tưởng của con đều ở nơi cha. Xin cha đừng để người ta nói rằng con đã cầu xin cha một cách vô ích, và vì cha có thể làm mọi điều với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, xin cho con thấy rằng lòng nhân hậu của cha cũng lớn lao như quyền năng của cha. Amen”.
Và nó kết thúc với một thách thức, đây là thách thức đối với Thánh Giuse: “Ngài có thể làm mọi việc với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, xin cho con thấy rằng lòng nhân hậu của ngài cũng lớn như quyền năng của ngài”. Đấy là một lời cầu nguyện… Tôi đã phó thác cho Thánh Giuse mỗi ngày với lời cầu nguyện này trong hơn 40 năm qua: đó là một lời cầu nguyện cổ xưa. Amen.
Cách đây vài phút, chúng ta nghe thấy một người la to, la to, người này có vấn đề gì đó, tôi không biết có phải là thể lý, tâm lý, hay thiêng liêng: nhưng đó là một trong những người anh em của chúng ta đang gặp rắc rối. Tôi muốn kết thúc bằng cách cầu nguyện cho anh ấy, người anh em đang đau khổ, tội nghiệp của chúng ta: nếu anh ấy la to thì đó là vì anh ấy đang đau khổ, anh ấy có một số nhu cầu. Chúng ta đừng làm ngơ trước nhu cầu của người anh em này. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện với Đức Mẹ cho anh ấy: Kính mừng…
Chúng ta hãy tiến lên phía trước, hãy can đảm, trong sự hiệp thông này của tất cả các thánh chúng ta có trên trời và dưới đất: Chúa không bỏ rơi chúng ta. Cảm ơn anh chị em.
__________________
Các lời kêu gọi
Sau bài giáo lý, Đức Thánh Cha đã đưa ra các lời kêu gọi sau đây:
Từ một năm nay, chúng ta đã theo dõi tình trạng bạo lực ở Miến Điện với nỗi đau buồn. Tôi lặp lại lời kêu gọi của các giám mục Miến Điện yêu cầu cộng đồng quốc tế làm việc để hòa giải giữa các bên liên hệ. Chúng ta không thể không nhìn nỗi đau khổ của rất nhiều anh chị em. Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa trong lời cầu nguyện để Người an ủi dân tộc bị khốn khổ này. Chúng ta giao phó các nỗ lực kiến tạo hòa bình của chúng ta cho Người.
* * *
Ngày mốt, 4 tháng 2, chúng ta sẽ kỷ niệm Ngày Quốc tế Huynh đệ Nhân bản lần thứ hai. Một lý do để hài lòng là các quốc gia trên toàn thế giới đang tham gia vào lễ kỷ niệm này, nhằm cổ vũ đối thoại liên tôn và liên văn hóa, như đã được kêu gọi trong Văn kiện về Tình Huynh đệ Nhân bản và Hòa bình Thế giới và Chung sống, được ký vào ngày 4 tháng 2 năm 2019 ở Abu Dhabi, bởi Đại giáo trưởng Al-Azhar, Muhammad Aḥmad al-Tayyib, và chính tôi. Tình huynh đệ có nghĩa là vươn tay ra với người khác, tôn trọng họ và lắng nghe họ với trái tim rộng mở. Tôi hy vọng rằng những bước đi cụ thể sẽ được thực hiện cùng với các tín đồ của các tôn giáo khác, và với những người có thiện chí, để khẳng định rằng ngày nay là thời kỳ của tình anh em, tránh gây xung đột, chia rẽ và đóng cửa. Chúng ta hãy cầu nguyện và dấn thân hàng ngày để tất cả chúng ta có thể sống trong hòa bình, như anh chị em.
* * *
Thế vận hội và Vận hội Song hành mùa đông sắp khai mạc tại Bắc Kinh, lần lượt vào ngày 4 tháng 2 và ngày 4 tháng 3. Tôi nhiệt liệt chào mừng tất cả những người tham gia. Xin chúc ban tổ chức thành công và các vận động viên thi đấu tốt nhất. Thể thao, với ngôn ngữ phổ quát của nó, có thể xây dựng những nhịp cầu hữu nghị và đoàn kết giữa các cá nhân và các dân tộc thuộc mọi nền văn hóa và tôn giáo. Do đó, tôi đánh giá cao sự kiện này là đối với phương châm lịch sử của thế vận hội “Citius, Altius, Fortius” – nghĩa là “nhanh hơn, cao hơn, mạnh hơn” – Ủy ban Thế vận quốc tế đã thêm từ “communiter”, nghĩa là “cùng nhau”: để các môn thi đấu Thế vận hội có thể mang lại một thế giới huynh đệ hơn. Cùng với nhau.
Tôi ủng hộ với một ý nghĩ đặc biệt toàn bộ thế giới Vận hội Song hành (Paralympic): chúng ta sẽ cùng nhau giành được huy chương quan trọng nhất, nếu tấm gương của các vận động viên khuyết tật giúp tất cả mọi người vượt qua định kiến và nỗi sợ hãi và làm cho cộng đồng của chúng ta được chào đón và hòa nhập hơn. Đây là huy chương vàng thực sự. Tôi cũng theo dõi với sự chú ý và xúc động về những câu chuyện cá nhân của các vận động viên tị nạn. Mong các chứng từ của họ giúp khuyến khích các xã hội dân sự cởi mở một cách tin tưởng nhiều hơn với tất cả mọi người, không bỏ sót một ai. Tôi cầu chúc cho đại gia đình Thế vận hội và Vận hội Song hành một trải nghiệm độc đáo về tình huynh đệ và hòa bình nhân bản: phúc thay những người kiến tạo hòa bình!
Nguồn: http://www.vietcatholicnews.org/
Bài 11. Thánh Giuse, quan thầy sự chết lành
Anh chị em thân mến,
chào anh chị em buổi sáng!
Trong bài giáo lý tuần trước, một lần nữa, được kích thích bởi hình ảnh Thánh Cả Giuse, chúng ta đã suy gẫm về ý nghĩa của việc các thánh cùng thông công hay hiệp thông. Và bắt đầu từ đó, hôm nay tôi xin đào sâu lòng sùng kính đặc biệt mà người dân Kitô giáo luôn dành cho Thánh Cả Giuse như vị thánh quan thầy của sự chết lành. Một lòng sùng kính nảy sinh từ ý nghĩ cho rằng Thánh Giuse đã chết với sự trợ giúp của Đức Trinh Nữ Maria và Chúa Giêsu, trước khi ngài rời mái nhà Nadarét. Không có dữ kiện lịch sử nào, nhưng vì Thánh Giuse không còn được nhìn thấy trong đời sống công cộng nữa, nên người ta cho là ngài đã chết ở Nadarét, với sự hiện diện của gia đình. Và bên cạnh ngài khi qua đời là Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Đức Bênêđíctô XV, một thế kỷ trước, đã viết rằng “qua Thánh Giuse, chúng ta trực tiếp đến với Mẹ Maria, và qua Mẹ Maria, đến nguồn gốc của mọi sự thánh thiện, đó là Chúa Giêsu”. Cả Thánh Giuse và Mẹ Maria đều giúp chúng ta đến với Chúa Giêsu. Và bằng cách khuyến khích các thực hành ngoan đạo để tôn vinh Thánh Giuse, ngài đặc biệt đề nghị một thực hành, và nói như vậy: “Vì ngài xứng đáng được coi là người bảo vệ hữu hiệu nhất cho những người hấp hối, từng qua đời với ‘sự trợ giúp của Chúa Giêsu và Mẹ Maria, nên sẽ là việc chăm sóc của các Mục tử thánh thiện khi cổ vũ và ưu ái […] các hiệp hội đạo đức đã được thành lập để cầu khẩn Thánh Giuse giúp người hấp hối, chẳng hạn như hiệp hội “Chết lành”, hiệp hội “Quá cảnh Thánh Giuse” và “cho Những Người hấp hối” (Tự sắc Bonum sane, 25 tháng 7 năm 1920): đó là những hiệp hội vào thời đó.
Anh chị em thân mến, có lẽ ai đó nghĩ rằng ngôn ngữ này và chủ đề này chỉ là di sản của quá khứ, nhưng thực tế mối liên hệ của chúng ta với cái chết không bao giờ là về quá khứ cả, nó luôn luôn hiện diện. Đức Bênêđíctô cho biết, cách đây mấy ngày, khi nói về bản thân rằng “ngài đang đứng trước cánh cửa tối tăm của sự chết”. Ta nên cảm ơn Đức Bênêđíctô, người, ở tuổi 95, vẫn còn sáng suốt nói với chúng ta rằng: “Tôi đang đối đầu với cảnh tối tăm của sự chết, cánh cửa tối tăm của sự chết”. Đó không phải là một lời khuyên tuyệt vời ngài đã dành cho chúng ta hay sao! Điều gọi là nền văn hóa “cảm thấy tốt” tìm cách xóa bỏ thực tại chết chóc, nhưng một cách bi đát, đại dịch coronavirus đã mang nó trở lại hàng đầu. Thật là khủng khiếp: cái chết ở khắp mọi nơi, và rất nhiều anh chị em đã mất đi những người thân yêu mà không thể gần gũi với họ, và điều này càng làm cho cái chết trở nên khó chấp nhận và xử lý hơn. Một y tá nói với tôi rằng một người bà bị bệnh covid sắp chết và nói: “Tôi muốn từ biệt gia đình tôi, trước khi tôi đi.” Và cô y tá can đảm lấy điện thoại di động của cô và để bà tiếp xúc với họ. Quả là cảnh dịu dàng của cuộc từ biết ấy…
Mặc dù vậy, chúng ta cố gắng bằng mọi cách loại bỏ ý nghĩ về sự hữu hạn của mình, do đó tự đánh lừa bản thân vì nghĩ rằng mình có thể lấy sức mạnh khỏi cái chết và xua đuổi nỗi sợ hãi. Nhưng đức tin Kitô giáo không phải là cách để xua đuổi nỗi sợ hãi cái chết, đúng hơn, nó giúp chúng ta đối đầu với nó. Không sớm thì muộn, tất cả chúng ta sẽ đi đến cánh cửa đó.
Ánh sáng đích thực, một ánh sáng soi sáng mầu nhiệm sự chết, phát xuất từ sự phục sinh của Chúa Kitô. Đây là ánh sáng. Và Thánh Phaolô viết: Nhưng nếu chúng tôi rao giảng rằng Đức Kitô đã từ cõi chết trỗi dậy, thì sao trong anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại? Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Kitô đã không trỗi dậy. Mà nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15: 12-14). Có một điều chắc chắn: Đức Kitô đã phục sinh, Đức Kitô đã sống lại, Đức Kitô đang sống giữa chúng ta. Và đây là ánh sáng đang chờ đợi chúng ta đằng sau cánh cửa tử thần tăm tối đó.
Anh chị em thân mến, chỉ nhờ đức tin vào sự sống lại, chúng ta mới có thể phớt lờ vực thẳm của sự chết mà không bị sợ hãi lấn át. Không chỉ vậy: chúng ta có thể trả lại một vai trò tích cực cho cái chết. Thật vậy, suy nghĩ về cái chết, được soi sáng bởi mầu nhiệm Chúa Kitô, sẽ giúp chúng ta nhìn mọi sự của cuộc sống bằng con mắt mới. Tôi chưa bao giờ thấy một chiếc xe dọn đồ di chuyển đằng sau một chiếc xe tang! Đằng sau một chiếc xe tang: Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó. Chúng ta sẽ đi một mình, không có gì trong túi của tấm vải liệm: không có gì. Vì tấm vải liệm không có túi. Sự cô đơn của cái chết: đó là sự thật, tôi chưa bao giờ nhìn thấy một chiếc xe tang mà đàng sau có một chiếc xe dọn đồ. Tích lũy chẳng ích gì nếu một ngày kia chúng ta sẽ chết. Điều chúng ta phải tích lũy là lòng bác ái, là khả năng chia sẻ, khả năng không thờ ơ với nhu cầu của người khác. Hoặc, tranh luận với anh / chị / em, bạn bè, người thân trong gia đình, hoặc với anh / chị / em trong đức tin có ích chi nếu một ngày nào đó chúng ta sẽ chết? Nổi nóng, nổi nóng với người khác có ích gì? Đối đầu với cái chết, nhiều vấn đề được giản lược. Khi chết mà được hòa giải là điều tốt, không để lại mối hận thù và ân hận nào! Tôi muốn nói một sự thật: tất cả chúng ta đều đang trên đường đến cánh cửa đó, tất cả mọi người.
Tin Mừng cho chúng ta biết cái chết đến như một tên trộm, vì vậy Chúa Giêsu nói: nó đến như một tên trộm, và dù chúng ta cố gắng kiểm soát sự xuất hiện của nó đến mức nào, có lẽ bằng cách lên kế hoạch cho cái chết của chính chúng ta, nó vẫn là một biến cố mà chúng ta phải đối phó và trước nó chúng ta cũng phải lựa chọn.
Vẫn còn hai điều Kitô hữu chúng ta phải xem xét. Đầu tiên: chúng ta không thể tránh khỏi cái chết, và chính vì lý do này, sau khi đã làm mọi cách con người có thể làm được để cứu người bệnh, sẽ là vô luân khi dấn thân vào những cách chữa trị vô ích (xem Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, số 2278). Câu nói đó của những người trung thành với Thiên Chúa, của những người đơn sơ: “Hãy để ngài chết trong bình an”, “giúp ngài chết trong bình an”: khôn ngoan biết bao nhiêu! Xem xét thứ hai liên quan đến phẩm chất của chính sự chết, phẩm chất của nỗi đau, của đau khổ. Thực vậy, chúng ta phải biết ơn tất cả những sự giúp đỡ mà y học đang cố gắng cung cấp, để nhờ điều gọi là “chăm sóc giảm đau”, mọi người đang chuẩn bị sống phần cuối cùng của cuộc đời, có thể làm được điều đó một cách xứng với con người hết sức có thể. Tuy nhiên, chúng ta phải cẩn thận để không nhầm lẫn sự trợ giúp này với mưu toan không thể chấp nhận được là dẫn đến việc giết người. Chúng ta phải đồng hành với người đang tiến đến sự chết, nhưng không được gây ra cái chết hoặc giúp đỡ bất cứ hình thức tự sát nào. Tôi nhớ rằng quyền được chăm sóc và chữa trị của tất cả mọi người luôn phải được ưu tiên, để những người yếu nhất, đặc biệt là người già và bệnh tật không bao giờ bị vứt bỏ. Sống là một quyền, chứ không phải chết, là điều phải chấp nhận, không được áp đặt. Và nguyên tắc đạo đức này áp dụng cho mọi người, không chỉ các Kitô hữu hay tín hữu.
Nhưng ở đây, tôi muốn chỉ ra một vấn đề xã hội có thật. Việc “Lập kế hoạch” đó – tôi không biết đó có phải là từ ngữ đúng hay không – nhưng nó đẩy nhanh cái chết của những người già. Rất nhiều lần người ta thấy trong một tầng lớp xã hội nào đó người già, vì họ không có phương tiện, được cho ít thuốc hơn mức họ cần, và điều này là vô nhân đạo: điều này không giúp đỡ họ, điều này còn đẩy họ vào cái chết sớm hơn. Và điều này không phải là con người cũng không phải là Kitô hữu. Người cao niên phải được coi như một báu vật của nhân loại: họ là túi khôn của chúng ta. Và nếu họ không còn nói được nữa, và nếu họ không còn làm chúng ta hiểu được nữa, họ vẫn là biểu tượng của túi khôn con người. Họ là những người đã đi trước chúng ta và để lại cho chúng ta biết bao điều đẹp đẽ, bao kỉ niệm, bao khôn ngoan. Làm ơn, xin đừng cô lập người già, đừng tăng tốc cái chết của người già. Vuốt ve một người già cũng có hy vọng giống như vuốt ve một đứa trẻ, bởi vì khởi đầu và kết thúc của cuộc đời luôn là một mầu nhiệm, một mầu nhiệm cần phải được trân trọng, đồng hành, chăm sóc, yêu thương.
Xin Thánh Cả Giuse giúp chúng ta sống mầu nhiệm sự chết một cách tốt nhất. Đối với một Kitô hữu, chết lành là được cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng đến gần chúng ta ngay trong giây phút cuối cùng của cuộc đời chúng ta. Ngay trong kinh Kính Mừng, chúng ta cũng cầu xin Đức Mẹ ở gần chúng ta “và trong giờ lâm tử”. Chính vì lý do này, tôi muốn kết thúc bài giáo lý này bằng cách cùng nhau cầu nguyện với Đức Mẹ cho những người đang hấp hối, cho những người đang trải qua giây phút vượt qua cánh cửa tối tăm này, và cho các thân nhân trong gia đình đang trải qua tang tóc. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện:
Kính mừng Maria…
Xin cám ơn anh chị em.
Nguồn: http://www.vietcatholicnews.org/
Bài 12. Thánh Giuse, quan thầy Giáo Hội
Anh chị em thân mến,
chào anh chị em buổi sáng!
Hôm nay chúng ta kết thúc chu kỳ các bài giáo lý về nhân vật Thánh Giuse. Các bài giáo lý này bổ sung cho Tông thư Patris corde, được viết nhân dịp kỷ niệm 150 năm việc Chân phước Piô IX công bố Thánh Giuse là Quan thầy Giáo Hội Công Giáo. Nhưng tước hiệu này có nghĩa gì? Thánh Giuse là “quan thầy của Giáo hội” có nghĩa gì? Hôm nay, tôi muốn suy gẫm về điều này với anh chị em.
Cả trong trường hợp này, các sách Tin Mừng cũng cung cấp cho chúng ta chìa khóa chính xác nhất để giải thích. Thật vậy, ở phần cuối của mỗi câu chuyện mà Thánh Giuse là nhân vật chính, Tin Mừng ghi nhận việc ngài mang Hài Nhi và mẹ Người đi theo và thực hiện những gì Thiên Chúa đã ra lệnh cho ngài (x. Mt 1:24; 2:14, 21). Như thế, sự kiện nhiệm vụ của Thánh Giuse là bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria rất nổi bật. Ngài là người bảo vệ chính của các Đấng: “Thật vậy, Chúa Giêsu và Đức Maria, Mẹ của Người, là kho tàng đức tin quý giá nhất của chúng ta”[1] 1 (Tông thư Patris corde, 5). Và kho báu này được Thánh Giuse bảo vệ.
Trong kế hoạch cứu độ, Con không thể tách rời khỏi Mẹ, khỏi Đấng “tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin và trung thành gìn giữ sự kết hợp với Con của mình tới tận Thập giá” (Lumen Gentium, 58), như Công Đồng Vatican II nhắc nhở chúng ta.
Theo một nghĩa nào đó, Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là hạt nhân nguyên thủy của Giáo hội. Chúa Giêsu là người và là Thiên Chúa; Đức Maria, người môn đệ đầu tiên và là Mẹ; và Thánh Giuse, người giám hộ. Và chúng ta cũng vậy “Chúng ta nên luôn xem xét liệu chính bản thân chúng ta, chúng ta có đang bảo vệ Chúa Giêsu và Mẹ Maria hay không, vì các Đấng cũng được giao phó một cách mầu nhiệm cho trách nhiệm, sự chăm sóc và gìn giữ an toàn của chính chúng ta” (Patris corde, 5). Và ở đây, có một dấu vết rất đẹp cho thấy ơn gọi của Kitô hữu: bảo vệ. Bảo vệ sự sống, bảo vệ sự phát triển của con người, bảo vệ trí óc con người, bảo vệ trái tim con người, bảo vệ việc làm của con người. Chúng ta có thể nói, Người Kitô hữu giống như Thánh Giuse: họ phải bảo vệ. Làm một Kitô hữu không phải chỉ là tiếp nhận đức tin, tuyên xưng đức tin, mà còn bảo vệ sự sống, sự sống của chính mình, sự sống của người khác, sự sống của Giáo hội. Con Đấng Tối Cao đã đến thế gian trong một tình trạng hết sức yếu đuối: Chúa Giêsu sinh ra như thế đấy, yếu đuối, yếu đuối. Người muốn được che chở, bảo vệ, chăm sóc. Thiên Chúa đã tin cậy Thánh Giuse cũng như Đức Maria, đấng đã tìm thấy nơi ngài một chàng rể yêu thương và kính trọng mình và luôn chăm sóc mình và Hài Nhi. “Theo nghĩa này, Thánh Giuse không thể nào khác hơn là Người Bảo vệ Giáo hội, vì Giáo hội là sự tiếp nối của Thân thể Chúa Kitô trong lịch sử, ngay cả khi tình mẫu tử của Đức Maria được phản ảnh trong tình mẫu tử của Giáo hội. Trong việc ngài tiếp tục bảo vệ Giáo hội, thánh Giuse tiếp tục bảo vệ Hài nhi và Mẹ của Người, và cả chúng ta nữa, bằng tình yêu của chúng ta đối với Giáo hội, chúng ta tiếp tục yêu mến Chúa Hài đồng và mẹ của Người” (sđd).
Hài nhi này là Đấng sẽ nói: “Bất cứ điều gì các ngươi làm cho một trong những người anh em nhỏ mọn nhất của Ta, anh em đã làm cho Ta” (Mt 25:40). Vì vậy, mọi người đói và khát, mọi người xa lạ, mọi người di cư, mọi người không quần áo, mọi người bệnh, mọi tù nhân đều là “Hài Nhi” được Thánh Giuse chăm sóc. Và chúng ta được mời gọi bảo vệ những người này, những anh chị em của chúng ta, như Thánh Giuse đã làm. Đó là lý do tại sao ngài được kêu cầu như người bảo vệ mọi người túng thiếu, bị lưu đày, chịu đau khổ và thậm chí cả những người sắp chết – chúng ta đã nói về điều này thứ Tư tuần trước. Và chúng ta cũng phải học nơi Thánh Giuse việc “bảo vệ” các điều tốt lành này: yêu Chúa Hài Đồng và mẹ của Người; yêu mến các bí tích và dân Chúa; yêu thương người nghèo và giáo xứ của chúng ta. Mỗi thực tại này luôn là Hài nhi và mẹ của Người (xem Patris corde, 5). Chúng ta phải bảo vệ, vì với điều này, chúng ta bảo vệ Chúa Giêsu, như Thánh Giuse đã làm.
Ngày nay, chuyện thông thường, diễn ra hàng ngày, là chỉ trích Giáo hội, chỉ ra những điểm mâu thuẫn của Giáo Hội – nhiều lắm- là chỉ ra các tội lỗi của Giáo Hội, những tội lỗi trên thực tế là các bất nhất của chúng ta, những tội lỗi của chúng ta, vì Giáo hội luôn là một dân tộc gồm những người tội lỗi gặp được lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy tự hỏi mình xem trong thâm tâm, chúng ta có yêu mến Giáo Hội như hiện Giáo Hội là hay không, tức là Dân Thiên Chúa đang trên đường lữ hành còn nhiều hạn chế, nhưng với một ước muốn lớn lao là phục vụ và yêu mến Thiên Chúa. Thực vậy, chỉ có tình yêu thương mới làm chúng ta có khả năng nói sự thật một cách trọn vẹn, một cách không phe phái; có khả năng nói điều sai, nhưng cũng biết nhận ra tất cả sự tốt lành và thánh thiện đang hiện diện trong Giáo hội, bắt đầu chính từ Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Yêu mến Giáo hội, bảo vệ Giáo hội và đồng hành cùng Giáo hội. Nhưng Giáo hội không phải là một nhóm nhỏ gần gũi với linh mục và chỉ huy mọi người, không. Giáo hội là tất cả mọi người, tất cả mọi người. Đang lữ hành. Bảo vệ lẫn nhau, chăm sóc lẫn nhau. Đây là một câu hỏi hay: khi tôi gặp vấn đề với ai đó, tôi có cố gắng chăm sóc họ không, hay ngay lập tức lên án họ, phỉ báng họ, tiêu diệt họ? Chúng ta phải bảo vệ, luôn luôn bảo vệ!
Anh chị em thân mến, tôi khuyến khích anh chị em cầu xin sự chuyển cầu của Thánh Giuse ngay vào chính các thời điểm khó khăn nhất trong cuộc sống và cộng đồng của anh chị em. Khi lỗi lầm của chúng ta trở thành một tai tiếng, chúng ta hãy cầu xin Thánh Giuse cho chúng ta can đảm để nói lên sự thật, xin sự tha thứ và khiêm tốn bắt đầu lại. Ở những nơi mà sự bách hại ngăn cản việc loan báo Tin Mừng, chúng ta hãy cầu xin Thánh Giuse sức mạnh và sự kiên nhẫn để chịu đựng sự ngược đãi và đau khổ vì lợi ích của Tin Mừng. Ở những nơi khan hiếm tài nguyên vật chất và nhân lực và làm cho chúng ta trải nghiệm nghèo đói, nhất là khi chúng ta được kêu gọi phục vụ những người cuối hết, những người không có khả năng tự vệ, các trẻ mồ côi, người bệnh, bị xã hội ruồng bỏ, chúng ta hãy cầu xin Thánh Giuse làm Sự Quan Phòng cho chúng ta. Biết bao vị thánh đã hướng về ngài! Biết bao người trong lịch sử Giáo Hội đã tìm thấy nơi ngài một đấng quan thầy, một người bảo vệ, một người cha!
Chúng ta hãy noi gương các ngài, và vì lý do này, hôm nay, chúng ta cầu nguyện: Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện với Thánh Cả Giuse bằng lời cầu nguyện tôi đã đặt ở phần kết của Tông Thư Patris corde, phó thác cho ngài các ý chỉ của chúng ta và, một cách đặc biệt, Giáo hội đang đau khổ và đang bị thử thách. Và bây giờ, anh chị em có trong tay lời cầu nguyện bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau – tôi nghĩ là bốn -; và tôi nghĩ nó cũng sẽ xuất hiện trên màn hình. Vì vậy, cùng nhau, mỗi người bằng ngôn ngữ riêng của mình, chúng ta hãy cầu nguyện với Thánh Giuse.
Kính chào, đấng giám hộ Chúa cứu thế, phu quân của Trinh nữ Maria.
Thiên Chúa đã giao phó Con Một của Người cho ngài;
nơi ngài, Đức Maria đã đặt niềm tin tưởng của ngài;
với ngài, Chúa Kitô đã trở thành người phàm.
Lạy Thánh Giuse diễm phúc, cả cho chúng con nữa,
xin ngài tỏ ra là một người cha,
và hướng dẫn chúng con trong con đường sống của chúng con.
Xin cầu bầu cho chúng con ân sủng, lòng thương xót và đức can đảm,
và bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen.
_______________________________________________________________________________________
Ghi chú:
[1] Sắc lệnh của Bộ Phụng Tự Quemadmodum Deus (8 tháng 12 năm 1870): ASS 6 (1870-71), 193; Xem Đức Piô IX, Tông thư Inclytum Patriarcham (ngày 7 tháng 7 năm 1871): lo. cit., 324-327.
Nguồn: http://www.vietcatholicnews.org/